Giáo Xứ Thổ Hoàng - Giáo Xứ Thổ Hoàng - Items filtered by date: Thứ ba, 08 Tháng 9 2020Giáo xứ thổ hoànghttp://www.gxthohoang.netWed, 08 May 2024 23:09:35 +0700 - Open Source Content Managementvi-vnDâng Mẹ Hiệp Cônghttp://www.gxthohoang.net/am-nhac/item/11810-dang-me-hiep-conghttp://www.gxthohoang.net/am-nhac/item/11810-dang-me-hiep-congDâng Mẹ Hiệp Công

Bài Hát: Dâng Mẹ Hiệp Công

Nhạc: Hồng Bính

Thể Hiên: Triệu Ngọc Yến

Tải pdf

{mp3remote}

https://thanhcavietnam.net/ThanhCaVN/?url=Download,23122,RP89-943EAD3830A39AE1

{/mp3remote}

Karaoke

Thánh Ca

Tiếng Hát Hoàng Thy

DangMeHiepCong-hb
]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Âm nhạcWed, 09 Sep 2020 06:36:42 +0700
Yêu thương kẻ thùhttp://www.gxthohoang.net/suy-niem-loi-chua/item/11809-yeu-thuong-ke-thuhttp://www.gxthohoang.net/suy-niem-loi-chua/item/11809-yeu-thuong-ke-thuYêu thương kẻ thù
  Yêu Thương Kẻ Thù


10.9 Thứ Năm

1Cr 8, 1b-7. 11-13; Lc 6, 27-38

Yêu Thương Kẻ Thù

Năm 2005, Thế Giới Phẳng cùa Thomas Friedman viết được trao giải thưởng ‘Cuốn Sách Hay Nhất’ trong năm do Thời báo Kinh Tế Financial Times và ngân hàng kinh tế đa quốc gia Goldman Sachs Business bình chọn.

Hiện nay “thế giới phẳng” đã trở thành thuật ngữ quen thuộc chỉ sự phát triển toàn cầu từ những năm đầu của thế kỷ XXI khi mười nhân tố lớn liên quan đến kinh tế và khoa học kỹ thuật trên thế giới cùng nhau tác động, khiến cho các mô hình xã hội, chính trị và xã hội đã bị thay đổi và thế giới trở nên phẳng hơn bao giờ hết khi sự tiếp xúc giữa các cá nhân trở nên dễ dàng, thân thiết, hiểu nhau hơn và chặt chẽ hơn trước kia.

Thế nhưng, sự thật không phải vậy khi những tranh chấp, mặc cả, đấu đá… vẫn diễn ra hàng ngày trên các lĩnh vực xã hội, kinh tế, chính trị… theo dòng thời sự thế giới. Điều này cũng dễ hiểu, vì theo bản tính tự nhiên, con người ta dễ dàng niềm nở, đối xử tốt với người có thiện cảm với mình mà không cần một cố gắng nào.

Và ta thấy Chúa Giêsu bảo những kẻ tội lỗi cũng làm được như thế. Nhưng sẽ không dễ chút nào khi phải vui vẻ, thân thiện với người mình ác cảm, hay phải tha thứ cho người đã lừa dối, vu khống, gây hại cho mình.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy ngay trong gia đình đã có những tranh chấp, cãi vã; hàng xóm cũng kiện tụng, đánh nhau; thế giới thì không ngừng chiến tranh, khủng bố…

Theo dõi tin tức thời sự, chúng ta thấy không ngày nào mà không có những vụ trả thù, nổ bom tự sát, bắt cóc, thủ tiêu con tin …. Tình hình chiến sự ở Syria và Ukraine thời gian gần đây ngày càng leo thang trầm trọng.

Đâu là nguyên nhân và đâu là phương thế có thể hòa giải thế giới và đem lại bình an cho con người?

Kinh thánh cho biết: từ khi nguyên tổ phạm tội thì sự dữ đã nhập vào thế gian. Sự ghen tương, thù hận, giết chóc đã xảy ra ngay sau đó giữa hai anh em Cain và Abel. Và cứ thế, lịch sử con người tiếp diễn với các cuộc tàn phá, và tàn sát. Sự thù hận không thể chấm dứt nếu con người muốn lấy máu trả nợ máu.

Trước Chúa Giêsu 6 thế kỷ, Đức Phật đã dạy ‘lấy oán báo oán, oán chất chồng; lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan’. Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta yêu thương, tha thứ cho kẻ thù không đơn thuần là một phương kế nhưng là một đòi hỏi bắt buộc đối với những ai muốn làm môn đệ của Ngài và làm con Cha trên trời. Với Chúa Giêsu, tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha và những ai được mời gọi làm con Thiên Chúa phải yêu người như Thiên Chúa đã yêu.

Chúa Giêsu cho biết Chúa Cha yêu thương ban mưa thuận gió hòa cho cả người công chính cũng như kẻ bất lương.

Ngài còn dạy các môn đệ phải biết yêu thương kẻ thù. Yêu kẻ thù là chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, và cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình.

Chúa Giêsu đã dạy yêu thương và Ngài đã sống điều Ngài dạy. Trên thập giá, Ngài xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ…”

Yêu thương, tha thứ quả là điều vô cùng khó. Chỉ nguyên việc không tìm cách trả đũa kẻ gây ra những đau thương bất hạnh cho mình đã là khó, nói chi đến việc làm ơn, cầu nguyện cũng như chúc phúc cho những kẻ thù nghịch với mình.

Khó nhưng đó lại là tiêu chuẩn thực hành của người Kitô Hữu. Khó nhưng không phải là không làm được. Trong Giáo Hội đã từng có biết bao vị thánh làm được điều mà Chúa đã dạy. Đó là thày phó tế Stêphanô. Trước giờ chết, thày đã lớn tiếng cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu xin nhận lấy linh hồn con”; và “xin đừng chấp tội họ”. Thánh tử đạo Việt Nam Emmanuel Lê Văn Phụng đã nói với các con của mình rằng: Các con đừng tìm cách báo thù; quay sang các bạn hữu, ngài nói: “Các bạn hãy tha thứ vì chính tôi đã tha thứ”.

Chúa Giêsu không đến trần gian để thiết lập một hệ thống luân lý, Ngài đến trước hết là để mặc khải tình yêu của Thiên Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Qua cuộc sống của Ngài, qua các quan hệ của Ngài với tha nhân, và nhất là qua cái chết của Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa. Yêu như Thiên Chúa yêu là trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu; yêu như Thiên Chúa yêu là yêu mọi người, ngay cả kẻ thù mình.

Chúa Giêsu sẽ không mặc khải trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa, nếu từ Thập giá, Ngài không tha thứ cho chính những kẻ đang hành hạ Ngài. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là đang lúc giang tay ra cho kẻ thù đóng đinh vào Thập giá mà vẫn có thể thốt lên: "Lạy Cha! Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Chúa Giêsu đã không rao giảng bất cứ điều gì mà chính Ngài không sống và minh chứng trước: dạy chúng ta tha thứ cho kẻ thù, Ngài đã chứng minh đó là điều nằm trong khả năng của con người.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về ơn gọi cao cả của người Kitô hữu: Như Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ hành hạ Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để yêu thương và tha thứ không ngừng, bởi vì chỉ có lòng tha thứ, chúng ta mới thực sự trở thành nhân chứng tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người.

Chúa Giêsu kêu gọi người phải Ki-tô hữu phải vượt thắng những tình cảm tự nhiên, những suy nghĩ tự nhiên, những phản ứng tự nhiên của một con người… để sống yêu thương như Chúa yêu, hy sinh, phục vụ như Chúa đã làm; để trở nên hoàn thiện như Cha Trên Trời là Đấng trọn toàn.
Huệ Minh

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Suy niệm Lời ChúaWed, 09 Sep 2020 06:30:29 +0700
Suy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần 23 Mùa Thường Niênhttp://www.gxthohoang.net/chuyện-gia-đình/item/11808-suy-niem-loi-chua-thu-nam-tuan-23-mua-thuong-nienhttp://www.gxthohoang.net/chuyện-gia-đình/item/11808-suy-niem-loi-chua-thu-nam-tuan-23-mua-thuong-nienSuy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần 23 Mùa Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Thứ Năm Tuần 23 Mùa Thường Niên

10/09/2020

THỨ NĂM TUẦN 23 TN
Lc 6,27-38

YÊU THƯƠNG KẺ THÙ

“Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” (Lc 6,28)

Suy niệm: Nhiều người nghe Lời Chúa dạy “yêu thương kẻ thù” không khỏi có cảm giác “lời này sao chói tai quá!” Theo lẽ tự nhiên, đối với những kẻ làm hại, nguyền rủa, vu khống ta, ta không trả thù đã là quá tốt; làm sao ai có thể “cầu nguyện,” “chúc lành” cho những hạng người ấy được?! Chúa dạy “chúc lành” cho họ là để ta tiêu diệt lòng ghét ghen thù hận nơi chính mình và mong điều tốt đẹp nhất cho những người đó. Chúa dạy “cầu nguyện” cho họ là xin tình yêu và ân sủng Chúa xuống trên họ để nhờ đó họ được biến đổi nên thánh thiện. Như vậy, thì làm gì có ý nghĩ hay hành động tiêu cực về bất kỳ ai! Trái lại chúng ta được mời gọi sống tích cực hướng thiện: “đem yêu thương vào nơi oán thù… đem an hòa vào nơi tranh chấp… đem chân lý vào chốn lỗi lầm.”

Mời Bạn: Lời này của Chúa có đang nói với tôi? Trong tận sâu thẳm của tâm hồn, tôi có những người mình không thích hay thù hận? Tôi có cần cầu nguyện cho ai đó như điều Chúa đang mời gọi tôi?

Sống Lời Chúa: Sống tích cực trong suy nghĩ, lời nói và hành động với mọi người tôi gặp gỡ hôm nay. Những lời trong kinh Hoà Bình: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…” là gợi ý cho tôi thực hiện điều đó.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã yêu thương và cứu độ chúng con khi chúng con còn là tội nhân, là những kẻ đang là thù địch với Chúa. Xin cho chúng con đi theo con đường của Chúa là yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù địch, nguyền rủa, vu khống chúng con, để chúng con trở nên giống Chúa.

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Suy Niệm Lời Chúa Hằng NgàyWed, 09 Sep 2020 06:27:02 +0700
Nên thánh đối với Giới trí thức và sinh viênhttp://www.gxthohoang.net/giup-nhau-song-dao/item/11807-nen-thanh-doi-voi-gioi-tri-thuc-va-sinh-vienhttp://www.gxthohoang.net/giup-nhau-song-dao/item/11807-nen-thanh-doi-voi-gioi-tri-thuc-va-sinh-vienNên thánh đối với Giới trí thức và sinh viên
  Nên thánh đối với Giới trí thức và sinh viên

NÊN THÁNH ĐỐI VỚI GIỚI TRÍ THỨC VÀ SINH VIÊN

CHỦ ĐỀ THÁNG 9/2020

Lời mời gọi nên thánh được gửi đến cho tất cả mọi người. Không chỉ là lời mời gọi, nên thánh còn là một bổn phận đối với các Kitô hữu, tức là những ai đã được phúc lãnh nhận ơn Thánh Tẩy. Trước mặt Chúa, không có sự phân biệt trí thức với bình dân; giàu với nghèo; thành phố hay nông thôn; da trắng hay da màu. Tất cả đều là con cái của Thiên Chúa, có cùng một Đức tin và một ơn gọi nên thánh.

Theo chương trình mục vụ của Tổng Giáo phận, trong tháng Chín dương lịch, chúng ta cầu nguyện cho ơn nên thánh của giới trí thức và sinh viên. Xin cho họ nỗ lực sống đức tin trong hành trình kiếm tìm Thiên Chúa là nguồn của Chân, Thiện Mỹ. Tìm kiếm cái Đẹp, cái Thật và cái Tốt, là tìm kiếm chính Thiên Chúa. Cuộc tìm kiếm Chân lý cũng là hành trình Đức tin. Thiên Chúa sẵn sàng tỏ mình cho những tâm hồn kiếm tìm Ngài. Những ai thành tâm đến với Chúa sẽ được gặp gỡ Ngài. Tìm kiếm Chúa cũng là một say mê, như người lái buôn phát hiện ra giá trị của viên ngọc quý, về bán mọi sự để mua bằng được viên ngọc ấy. Người trí thức khi đã gặp Chúa, sẽ say mê Ngài, như chàng thanh niên Augustinô đã thốt lên: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên tâm hồn con mãi khắc khoải băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa". Sau một thời hoang đàng, chàng thanh niên ấy cuối cùng cũng gặp được Chúa và cảm thấy hối tiếc: “Lạy Chúa, con đã yêu Ngài quá muộn. Ôi vẻ đẹp của ngàn xưa, một vẻ đẹp mỗi ngày mỗi mới”.

1- Một thực tế đáng lo ngại
Một thực tế trong xã hội miền Bắc của chúng ta, sau nhiều thập kỷ thiếu vắng linh mục và việc dạy giáo lý, nhiều tín hữu không có nền tảng Đức tin. Họ giữ Đạo theo kiểu “Đạo làng” tức là sinh ra và lớn lên trong một thôn làng, thế hệ trước dạy thế hệ sau, chỉ biết làm Dấu Thánh giá và một số kinh “chiều hôm ban sáng”, ít có điều kiện học giáo lý. Chính vì vậy, khi rời thôn làng để đi học đại học, đi bộ đội, công nhân hoặc tìm kiếm việc làm ở các đô thị, họ không còn trong một không gian làng xóm nữa, Đức tin vì thế mà mai một. Nhất là những trường hợp tiếp cận với những tuyên truyền vô thần hoặc những lý thuyết chống tôn giáo, những người trẻ này dễ mất Đức tin. Họ dễ dàng bỏ những thực hành đạo đức truyền thống mà họ được cha mẹ dạy từ khi còn nhỏ trong gia đình.

2- Một tín hiệu đáng vui mừng
Xã hội chính trị của Việt Nam theo chủ trương vô thần. Trong nhiều thập kỷ qua, nhất là thời bao cấp ở miền Bắc, những người tín hữu Công giáo chịu nhiều thiệt thòi. Nhiều bác sĩ, giáo viên, doanh nhân hay nhà khoa học, dù là người Công giáo, không dám công khai tuyên xưng Đức tin. Bởi lẽ hai chữ “Công giáo” có thể gây nhiều hệ lụy. Sự phân biệt kỳ thị này, hiện nay đã bớt rất nhiều. Giới trí thức Công giáo đang đóng góp tích cực phần mình để phát triển xã hội trong nhiều lãnh vực. Có rất nhiều bác sĩ, giáo viên và doanh nhân Công giáo thành đạt và có uy tín trong các lãnh vực chuyên môn. Nhiều người trong họ công khai thực hành Đức tin. Nhiều người Công giáo cũng là những chuyên viên trong các ngành kiến trúc, hội hoạ, âm nhạc, văn chương. Các nhà trẻ mầm non do các nữ tu đảm trách đều đạt chất lượng giáo dục tốt, nhiều người dân tín nhiệm. Có nhiều vị cán bộ gửi con vào các trường này. Đây là tín hiệu vui cho thấy những rào cản của thành kiến đang bớt dần và hiệu quả giáo dục Công giáo được nhiều người công nhận.

3- Đức tin và Lý trí
“Đức tin và Lý trí là như đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm chân lý”. Đó là câu mở đầu của Thông điệp mang tên “Đức tin và lý trí – Fides et Ratio” do Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II công bố ngày 14-9-1998. Lời khẳng định này đã nêu rõ quan điểm của Giáo Hội về lý trí, đồng thời xóa đi mọi hiểu lầm về vấn đề này. Trong quan niệm thông thường, người ta cho rằng tôn giáo nói chung chỉ dành cho giới bình dân và người ít học. Nhiều người thiếu thiện cảm với Giáo Hội Công giáo lập luận rằng Đức tin vào Thiên Chúa chỉ tồn tại bao lâu con người còn ở trình độ văn hóa thấp kém. Họ so sánh Đức tin như lớp mây mù, lý trí là ánh sáng mặt trời. Đức tin chỉ tồn tại khi con người kém hiểu biết, cũng như đám mây mù chỉ bao phủ khi mặt trời chưa mọc lên. Một khi đã có ánh sáng mặt trời soi chiếu thì lớp mây mù tất yếu sẽ phải tan đi. Thực tế chứng minh, những quan điểm này là phiến diện, xuất phát từ thành kiến và hiểu biết lệch lạc về tôn giáo nói chung và công giáo nói riêng.

Khi khẳng định: “Đức tin và Lý trí như đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm Chân lý”, con người được diễn tả như một con chim đang vươn mình lên cao. Con chim một cánh sẽ không thể bay được. Con người không thể khám phá chân lý nếu chỉ có riêng Đức tin hay chỉ có lý trí mà thôi. Cuộc sống con người là một cuộc kiếm tìm chân lý. Lý trí sẽ giúp cho con người đạt tới Chân lý và Đức tin giúp con người gặp gỡ Đấng Tối cao. Đấng Tối cao trong Đức tin của người Kitô hữu chính là Thiên Chúa, là Đấng Giàu lòng thương xót và là Cha yêu thương hết thảy mọi người. Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể đã mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa Cha, đồng thời mời gọi chúng ta hãy sống tình con thảo với Chúa Cha và tình huynh đệ với anh chị em, không phân biệt chủng tộc hay ngôn ngữ. Ngài yêu thương mọi người và muốn cho họ được hạnh phúc.

Lý trí giúp con người thấu đạt Chân lý. Vì vậy, trong tiến trình huấn luyện tại các Đại Chủng viện, các chủng sinh phải học Triết học trước khi học Thần học. Thánh Gioan Phaolô II viết trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis, số 52: “Triết học đóng góp rất nhiều để giúp ứng sinh làm giàu việc đào tạo trí thức nhằm đạt tới sự “suy tôn chân lý”, nghĩa là một sự bái phục chân lý với tâm tình trìu mến dẫn đến chỗ nhìn nhận rằng chân lý tự nó không hề được tạo nên hoặc được khuôn đúc do con người nhưng được ban cho con người do bởi Chân lý tối thượng, bởi Thiên Chúa; rằng lý trí con người, mặc dầu bị hạn chế và đôi khi rất khó khăn, có thể đạt tới chân lý khách quan và phổ quát, là chân lý liên quan tới Thiên Chúa và tới ý nghĩa căn cơ của hiện hữu; sau hết, rằng đức tin tự nó không thể loại bỏ lý trí hoặc miễn trừ nỗ lực “suy tư” về những gì đức tin chất chứa, như lời dẫn giải của một đầu óc xuất chúng là thánh Augustinô: “Tôi đã khao khát dùng trí thông minh để dò tìm điều mà tôi đã đặt niềm tin tôi vào, tôi đã bàn cãi nhiều và tôi đã cực nhọc không ít”.

4- Đức tin và Khoa học
Do chính bản chất của nó, Đức tin nằm ở một bình diện khác hẳn so với khoa học. Đức tin không dựa trên cơ sở xác minh của thí nghiệm theo kiểu khoa học, không phát nguyên từ những tư biện lý tính, và cũng không phải là một chuỗi luận đề giản lược đọc thấy trong Kinh Tin Kính. Đức tin, trước hết là thái độ gắn bó đối với một Đấng, là tâm tình phó thác vào trong tay Một Vị, là cuộc dấn thân của chính cá nhân mình cho Ngài.

Đối tượng của Đức tin chính là Thiên Chúa, Đấng đã tự mạc khải mình ra. Người biết mở lòng ra để tin, thì sẽ đón nhận được sứ điệp của Ngài, với niềm hy vọng là trong sứ điệp ấy, mình sẽ tìm gặp được ý nghĩa cho đời của mình. Nếu biết dấn bước vào trong con đường Ngài vạch cho, nếu biết sống kinh nghiệm Đức tin, thì lúc đó, người có lòng tin sẽ xác tín cảm nghiệm được là mình đang sống trong Chân lý.

Từ đâu mà có được niềm xác tín thâm sâu ấy? Từ uy tín của Đấng mạc khải. Chính Thiên Chúa đã nói với con người những gì con người tin. Đó chính là một thể dạng của xác thực tính, nhưng là thuộc một loại khác với xác thực tính của khoa học; cả hai loại đều đặt nền móng trên những kinh nghiệm, nhưng những kinh nghiệm này cũng thuộc những thể loại khác nhau.

Theo một cách nói thông dụng, thì khoa học lo nghiên cứu về các hiện tượng (vật lý, hóa học, sinh học…) để cố trả lời cho nghi vấn thế nào về các sự vật; khoa học không thể có ý kiến về ý nghĩa của các sự vật. Đức tin có một đối tượng khác hẳn: Đức tin lo tìm hiểu về Thiên Chúa và về những gì Ngài nói với con người nhằm giúp con người đạt tới được tiêu đích của đời mình. Đức tin vén mở cho thấy ý nghĩa của các sự vật; khoa học không làm được như thế. Vì lãnh vực của khoa học thuộc phạm vi của thế nào, chứ không phải của tại sao, tức là thuộc phạm vị của cơ chế các hiện tượng, chứ không thuộc phạm vi của ý nghĩa chúng hàm súc.

Nếu đã rõ là hai loại hiểu biết ấy nằm ở hai bình diện khác nhau, thế tất cũng sẽ hiểu là không thể có chuyện những gì khoa học minh xác lại đụng đầu đối nghịch với những gì Đức tin khẳng định và ngược lại” (Trích bài viết của Jean-Marie Moretti, SJ, mang tựa đề Science et Foi, được đăng trên Tuyền tập Thần học tiếng Việt số 8, năm 1993).

5- Những nhà khoa học đồng thời là tín hữu
Lịch sử Giáo Hội ghi nhận nhiều nhà khoa học, đồng thời cũng là người có Đức tin. Chúng ta dẫn chứng một vài vị dưới đây:

- Blaise Pascal, Thần đồng toán học và vật lý. Người có câu nói bất hủ: “Khoa học nông cạn làm cho người ta xa Thiên Chúa. Khoa học tinh vi làm cho người ta gần Thiên Chúa”. Và ông cũng đã kết luận: “Con người chỉ là cây sậy biết tư duy.”

- Isaac Newton, Nhà khoa học và toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại.

- René Descartes, Nhà bác học về Hình học và Những con số bất biến. Người hướng dẫn cuộc Cách Mạng Khoa học của phương Tây.

- Anton Maria Schyrleus of Rheita, Nhà thiên văn học, đã dâng hiến công trình của mình cho Đức Trinh nữ Maria.

- Louis Pasteur, Người sáng chế ra phương pháp khử trùng, nhà hóa học, và vi khuẩn học, đã giải trừ vấn nạn của bệnh chó dại, và người đầu tiên tạo ra việc tiêm Vaccine phòng bệnh.

- George Jackson Mivart, Hàn Lâm về Thực Vật Học

- Georges Lemaitre, Linh mục và là người khai phá ra thuyết Big Bang.

Trên đây chỉ là trích dẫn một số ít các nhà khoa học tiêu biểu để chứng minh rằng, một người có Đức tin vẫn có thể là một nhà khoa học. Đức tin và lý trí bổ túc cho nhau trong hành trình kiếm tìm Chân lý. Một thống kê đã cho kết quả: 92% những nhà khoa học thế kỷ 19 là người Kitô hữu. Trong lịch sử Giáo Hội, có nhiều vị thánh đồng thời cũng là những nhà trí thức uyên thâm như Thánh Thomas Aquinô, Thánh Augustinô, Thánh Alfonso de Liguori.

6- Lời mời gọi giới trí thức và sinh viên nên thánh
Bạn đừng sợ nên thánh. Sự thánh thiện không tước đi năng lực, sức sống hay niềm vui của bạn. Trái lại, bạn sẽ trở thành điều mà Chúa Cha nhắm đến khi tạo nên bạn, và bạn sẽ trung thành với bản ngã sâu xa nhất của mình. Việc ta phụ thuộc vào Thiên Chúa sẽ giải phóng ta khỏi mọi hình thức nô lệ và giúp ta nhận ra phẩm giá cao cả của mình.

“Làm gì để trở thành người Công Giáo trí thức” là mối bận tâm của các chủ chăn trong Giáo Hội bởi người trí thức chính là hào quang của Giáo Hội. Mối bận tâm này được thánh Phaolô chia sẻ: từ ngày chúng tôi nghe biết về anh em, chúng tôi không ngừng cầu nguyện và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho (Cl 1,9). Thiết tưởng, nếu các bạn am tường thánh ý Người dưới sự hướng dẫn của Thần Khí, hội tụ cả Đức Tin và Lý Trí, các bạn sẽ có cơ hội tốt để mách nước cho bè bạn không cùng niềm tin rằng: khi các bạn đang miệt mài đi tìm sự khôn ngoan, và đi tới cùng sự khôn ngoan ấy, các bạn sẽ chạm tới cội nguồn chân lý là chính Thiên Chúa.

Là sinh viên Công Giáo, các bạn nên tự hào và dấn bước bởi sứ mạng của các bạn trong thế giới hôm nay là làm sao để người thời đại thấy được sự vượt trội về sự thánh thiện, tốt lành, công bằng, bác ái... khi ấy, chắc hẳn, người đời cũng phải trầm trồ rằng: đúng là các bạn có đạo ngoan hiền, tử tế, thật thà, đoàn kết, hòa đồng, sống thật tốt, chơi thật đẹp. Tuy nhiên, trong thế giới hôm nay, người sinh viên Công Giáo cần vượt trội về tri thức nữa. Trong thế giới phẳng hiện nay, người ta rất tôn trọng năng lực và tài giỏi, nghĩa là phẩm chất. Để trả lời cho các vấn nạn của con người, có thiện chí quảng đại thôi tự nó vẫn chưa đủ, trừ phi có kèm theo những hiểu biết và những kỹ thuật thích hợp giúp chúng ta hiểu các hiện tượng văn hóa đang ảnh hưởng tới đời sống hiện nay, và các Kitô hữu còn cần khả năng đối phó với những hiện tượng ấy bằng sự hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn về mầu nhiệm Đức Kitô.

Như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định: Đức tin và lý trí là đôi cánh giúp cho trí tuệ con người băng mình lên để chiêm niệm chân lý”. Người công giáo không tách rời lý trí với Đức tin, đồng thời xác định hai khía cạnh này không hề mâu thuẫn. Việc trau dồi kiến thức cần phải đi đôi với những thực hành đức tin, tức là lắng nghe lời Chúa, cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận thường xuyên các bí tích. Như thế, người trí thức sẽ được phát triển toàn diện, quân bình. Nhờ Đức tin vững vàng, họ sẽ nhận ra Thiên Chúa hiện hữu trong cuộc đời và Ngài là nguyên lý của mọi sự mọi loài. Hãy chứng minh mình là một nhà trí thức đồng thời cũng là một tín hữu.

Cuối cùng, anh chị em trí thức và sinh viên không phải là người khách lạ qua đường, nhưng là thành viên của Tổng Giáo phận. Anh Chị em được mời gọi gắn bó và tham gia nhiệt thành vào đời sống Đức tin của giáo xứ, như tham gia các hội đoàn đạo đức, các phong trào tông đồ giáo dân hoặc những việc từ thiện bác ái tuỳ theo khả năng của mình. Những hoạt động tông đồ này mang lại nhiều hiệu quả tích cực cho công cuộc truyền giáo. Là người có kiến thức, anh chị em sẽ dễ dàng trình bày về Đức tin và niềm hy vọng Kitô giáo cho những người không cùng niềm tin với chúng ta.

Tháng Chín cũng là thời điểm khai giảng năm học mới. Với đại dịch viêm phổi Vũ Hán (Covid-19), chắc chắn đây sẽ một năm học nhiều khó khăn và thách thức. Tuy vậy, nếu biết cố gắng, chuyên cần, các bạn sẽ đạt được những kết quả tốt. Tôi muốn nhắc lại với các bạn lời Đấng Đáng kính Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: “Học để biết. Học để canh tân. Học để phục vụ. Học để yêu mến. Chưa học để phục vụ đúng mức, con chưa mến Chúa đủ.” Khi xác định việc học hành dẫn ta đến phục vụ tha nhân và yêu mến Chúa, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm hứng khởi và say mê, để không ngừng tiến bước trong hành trình phát triển trí tuệ.

Kết luận: Anh chị em đừng sợ hướng nhìn cao hơn, cho phép Thiên Chúa yêu thương và giải phóng chúng ta. Đừng sợ để mình được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Sự thánh thiện không làm cho chúng ta ít là người hơn, vi đó là một gặp gỡ giữa sự yếu đuối của chúng ta và sức mạnh của ân sủng Thiên Chúa, vì như cách nói của Léon Bloy, rốt cục, “bi kịch thảm hại duy nhất trong đời sống, đó là không nên thánh”.

Hà Nội, đầu mùa Thu 2020

+Giuse Vũ Văn Thiên
Tổng Giám mục Hà Nội.

Nguồn: tonggiaophanhanoi.org

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Giúp nhau sống đạoTue, 08 Sep 2020 19:22:29 +0700
Thiên Chúa rất người, chẳng ai người hơn Chúahttp://www.gxthohoang.net/suyniem-suytu/item/11806-thien-chua-rat-nguoi-chang-ai-nguoi-hon-chuahttp://www.gxthohoang.net/suyniem-suytu/item/11806-thien-chua-rat-nguoi-chang-ai-nguoi-hon-chuaThiên Chúa rất người, chẳng ai người hơn Chúa
  THIÊN CHÚA RẤT ‘NGƯỜI’, CHẲNG AI ‘NGƯỜI’ HƠN THIÊN CHÚA

“Chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”.

Kính thưa Anh Chị em,

Mừng Sinh Nhật Đức Mẹ, Hội Thánh cho con cái đọc lại gia phả của Chúa Giêsu, một gia phả vốn chỉ có trong Tin Mừng Matthêu mà mỗi năm được đọc không quá ba lần: hai lần áp lễ Giáng Sinh và lễ sinh nhật Đức Mẹ. Qua đó, Hội Thánh muốn nói, Thiên Chúa rất ‘người’, chẳng ai ‘người’ hơn Thiên Chúa, Đấng trung thành với các lời hứa mà Chúa Giêsu là điểm tới của lịch sử, là hiện thực của niềm hy vọng nơi các tổ phụ Cựu Ước. Thú vị thay, gia phả của Chúa Giêsu còn có cả những thiên tiểu thuyết không dành cho trẻ em dưới mười tám tuổi.

Chúng ta chú ý đến bốn phụ nữ trong gia phả này. Họ là ai? Họ là bà tổ Sara, vợ Abraham; Rebecca, vợ Isaac; Léa và Rakhel, hai cô vợ xinh của Giacob? Không phải thế! Matthêu không ghi danh “các mệnh phụ, “các bà lớn” này, nhưng thánh sử kín đáo nói đến bốn bà khác dù người ta cảm thấy xấu hổ mỗi khi nhớ đến họ; bởi lẽ, bốn bà này có thể làm hoen ố dòng tộc dân Chúa với những vết nhơ lịch sử. Matthêu đã khéo bóng bẩy khi nhắc đến họ, và đây là khởi điểm quan trọng để dẫn vào Tin Mừng của ngài, Tin Mừng vốn dành cho người ngoại trở lại, “Những kẻ rốt hết sẽ nên trước hết.

Với Thiên Chúa, thước đo của nhân loại phải đảo ngược, Người chọn những gì được coi là yếu hèn. Nhắc đến bốn phụ nữ bất xứng, gia phả của Tin Mừng Matthêu trở thành cây gia phả của hồng ân, gia phả của lòng thương xót. Thiên Chúa, một Thiên Chúa rất ‘người’, chẳng ai ‘người’ hơn Thiên Chúa, Đấng đón nhận tội lỗi và dựng xây kế đồ của Người trên nền tảng của lòng nhân hậu và thứ tha, chứ không trên những con người vĩ đại với những thành quả hiển hách của họ.

Vậy bốn phụ nữ bất xứng đó có thực sự là những con người tội lỗi không? Đức Bênêđictô XVI giải thích, “Nếu nhìn gần và nhìn kỹ các nố, một điều sẽ được xác định: đó là tội của các ông, không phải tội của các bà. Điều đặc biệt của các phụ nữ này ở chỗ, họ không phải là người Do Thái. Và một khi các bà ngoại giáo này tham dự vào những biến cố quan trọng của lịch sử, thì họ có quyền được coi là những “bà tổ của vương triều Israel”. Chính Thiên Chúa, Đấng rất ‘người’, đã can thiệp nơi các bà.

Trước hết, Tama người Aramê, sách Sáng Thế chương 38. Sau khi hai người chồng qua đời, Tama goá bụa, không con; nhạc gia Giuđa hứa sẽ gả nàng cho Sêla, cậu thứ ba. Về sau, ông thất hứa, Tama về nhà mẹ. Biết bố chồng đến Timna, Tama ranh mãnh vờ làm một gái điếm; tranh tối tránh sáng, Giuđa nào biết đó là cô dâu trưởng của mình và sau khi đã trao những tặng vật nàng vòi vĩnh là chiếc ấn, sợi dây đeo ấn và cây gậy, ông ăn ở với nàng. Tin này tới tai Giuđa, “Tama, con dâu ông làm điếm; nó còn có thai!”; Giuđa nổi giận, “Lôi nó ra mà thiêu sống!”. Nhưng thật đáo để, Tama nhờ người báo cho ông nhạc rằng, cô có thai với ông, tang vật lão nhạc tặng còn đây. Tama thật thông minh; Giuđa nhận lỗi, “Nó công chính hơn tôi. Như vậy, tội là tội của Giuđa, chứ không do Tama.

Rakháp, một gái điếm khác trong Giosuê chương 2, cô gái ăn sương người Canaan, đã giúp mở đường cho quân Israel tiến vào Giêricô; qua đó, cánh cửa Đất Hứa mở ra, Rakháp làm điều đó, vì tin vào Thiên Chúa của những con người lạ lẫm. Rút, trong sách Bà Rút, một phụ nữ ngoại giáo Moab kết bạn với Bôát, Do Thái; chồng qua đời, cô tự do và có thể về quê của mình, nhưng lúc Israel gặp nạn đói, mẹ chồng khốn quẫn, Rút không rời mẹ vì lời “xin vâng” của cô đối với chồng, với Thiên Chúa của chồng; Rút mót lúa ruộng ông Bôát và mót luôn trái tim ông, cô đã trở thành bà cố của Đavít, “bà tổ” của vương triều. Bà thứ tư, vợ của Uriah, rất quen với chúng ta; Bethseva, ngoại giáo người Khết; đọc chuyện của cô với Đavít trong 2 Samuel chương 11, rõ ràng, cô vô tội; tội ở chính Đavít, người không chịu ngủ trưa, vác xác đi ngơ ngơ trên sân thượng.

Bốn phụ nữ này đã gấp lại những trang sử rất quan trọng của các đấng nam nhi vĩ đại tuy có phần lem nhem, để rồi các bà thực sự trở thành người lèo lái dòng dõi. Nhờ vậy, cây gia phả với trái trăng của các bậc mày râu đã trở thành cây gia phả đong đưa trái hồng phúc, lủng lẳng quả niềm tin nhờ ơn mưa móc từ lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính trên niềm tin của các cô Tama, Rakháp, Rút và Bethseva, lời hứa của Thiên Chúa đã thành hiện thực. Cây gia phả của Chúa Giêsu đã trở thành cây gia phả của mọi dân tộc trên thế giới, một gia phả mà Thiên Chúa, Đấng rất ‘người’ ươm trồng.

Anh Chị em,

Đức Maria xuất hiện, cao điểm của cây gia phả. Đức Mẹ, như một khởi đầu mới, một khởi đầu đích thực mà tất cả đều phải quay về đó. Sự khởi đầu này xảy ra qua niềm tin với lời “xin vâng” của Mẹ. Khởi đầu này đã hình thành trong cả khởi đầu của Israel vốn cũng đã xảy ra qua niềm tin của các bà mẹ, niềm tin của những phụ nữ lạ lẫm mà Thiên Chúa, Đấng rất ‘người’, đã cho phép họ cộng tác. Cho đến hôm nay, khởi đầu này luôn được thực hiện; nhờ đó, gia phả của Chúa Giêsu vẫn sẽ tiếp tục “dài thêm”, nghĩa là ai ai cũng có thể trở nên họ hàng với Đức Kitô, có thể nên một với Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã cho con cùng Mẹ Maria “kéo dài” gia phả Chúa. Xin cho con biết phải kéo dài làm sao để khúc lịch sử con tham gia được sáng sủa hơn, chứ không vì con mà lem luốc”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Suy Niệm - Suy TưTue, 08 Sep 2020 11:09:55 +0700