Giáo Xứ Thổ Hoàng - Giáo Xứ Thổ Hoàng - Items filtered by date: Tháng 11 2024Giáo xứ thổ hoànghttp://gxthohoang.net:8181Mon, 25 Nov 2024 01:29:30 +0700 - Open Source Content Managementvi-vnSuy Niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần 34 Mùa Thường Niênhttp://gxthohoang.net:8181/van-hoa-nghe-thuat/van/item/19072-sn-lc-thu-hai-tuan-34-tnhttp://gxthohoang.net:8181/van-hoa-nghe-thuat/van/item/19072-sn-lc-thu-hai-tuan-34-tnSuy Niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần 34 Mùa Thường Niên
  Suy Niệm Lời Chúa Thứ Hai Tuần 34 Mùa Thường Niên  

 

25/11/2024

Thứ Hai Tuần 34 Tn
Thánh An-Rê Dũng Lạc Và Các Bạn Tử Đạo
Lc 9,23-26

Dám Chọn Thập Giá!

“Ai muốn theo tôi phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. (Lc 9,23)

Suy niệm: Đứng trước thập giá, khuynh hướng chung là tránh né hay chối từ, bởi mấy ai muốn chọn đau khổ, từ bỏ mình, nhất là mấy ai dám chấp nhận cái chết. Thế nhưng, cũng có những người dám đổi cả hạnh phúc, tài sản, sự nghiệp, và dám từ bỏ cả những người thân, để chọn lấy thập giá và cái chết, đó là các anh hùng Tử đạo Việt Nam, được Giáo hội tuyên dương trong ngày hôm nay. Các ngài được tôn phong là anh hùng, vì dám sống hết mình cho niềm tin vào Thiên Chúa; cũng có người cho rằng các ngài điên dại, nhưng là ‘điên dại có cơ sở’ vì đức tin và tình yêu đối với Đức Ki-tô, như thánh Phao-lô đã từng nói đến (x. 1Cr 4,10). Đức tin và tình yêu ấy định hình đời sống và chọn lựa, để giữa làn ranh sinh-tử, các ngài quyết chọn lấy thập giá, hầu trở nên môn đệ chính danh của Đức Ki-tô.

Mời Bạn: Có thể thấy trong nhiều tên gọi của một số hội dòng, hạn từ được ưa thích là “thánh giá.” Phải chăng vì các tu sĩ muốn thể hiện tình yêu với thập giá Đức Ki-tô, đến độ coi thập giá ấy là “đối tượng duy nhất” của đời mình. Cuộc sống của bạn cũng luôn đan xen những chọn lựa, giữa điều tốt với xấu, giữa Đức Ki-tô với thế gian. Cách chọn lựa của bạn cho thấy bạn đang là loại môn đệ nào trong hành trình đi theo Người.

Sống Lời Chúa: Hôm nay bạn đón lấy những sự trái ý, và những đau khổ tinh thần cũng như thể xác của bạn làm của lễ hy sinh dâng lên Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Thầy Giê-su, thập giá là giá chuộc và hy vọng của đời con, xin cho con luôn biết bỏ mình, vác thập giá mình bước mà theo Ngài. Amen.

 

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Suy Niệm Lời Chúa Hằng NgàySun, 24 Nov 2024 09:15:34 +0700
Buồn vui mùa thuyên chuyển- hành trình của đời Linh mụchttp://gxthohoang.net:8181/tam-tinh-nguoi-con-giao-xu/item/19071-buon-vui-mua-thuyen-chuyen-buon-vui-doi-linh-muchttp://gxthohoang.net:8181/tam-tinh-nguoi-con-giao-xu/item/19071-buon-vui-mua-thuyen-chuyen-buon-vui-doi-linh-mucBuồn vui mùa thuyên chuyển- hành trình của đời Linh mục
  BUỒN VUI MÙA THUYÊN CHUYỂN – HÀNH TRÌNH CỦA ĐỜI LINH MỤC

Đời linh mục là một hành trình đặc biệt, nơi mỗi người được mời gọi trở nên mục tử lo cho đoàn chiên. Trên hành trình ấy, việc thuyên chuyển không chỉ là một trách nhiệm, mà còn là một phần trong ơn gọi và sứ mạng của đời linh mục. Mỗi lần thuyên chuyển mang theo những cảm xúc buồn vui đan xen, những giọt nước mắt và những nụ cười, nhưng trên tất cả, đó là sự vâng phục và tín thác vào ý Chúa.

Linh mục được ví như người mục tử chăm sóc đoàn chiên của mình. Đó là trách nhiệm và cũng là sứ mạng cao cả mà Chúa trao ban. Ở mỗi giáo xứ, linh mục không chỉ là người dạy dỗ, hướng dẫn đời sống đức tin, mà còn trở thành một người cha, một người bạn đồng hành với giáo dân trong những niềm vui và nỗi buồn của đời sống thường nhật.

Những ngày tháng sống và làm việc tại giáo xứ không chỉ là thời gian thực hiện nhiệm vụ, mà còn là khoảng thời gian để xây dựng những mối quan hệ gắn bó, chia sẻ tình yêu thương với cộng đoàn. Do đó, khi lệnh thuyên chuyển đến, cả linh mục lẫn giáo dân đều cảm nhận được sự chia lìa, để lại bao nhiêu kỷ niệm khó phai.

Linh mục, trong lời tuyên khấn của mình, đã cam kết vâng phục đấng bản quyền. Điều này có nghĩa là khi nghe tiếng gọi, khi nhận lệnh thuyên chuyển, linh mục sẵn sàng cất bước ra đi mà không ngần ngại. Đây không chỉ là sự vâng phục đối với đấng bề trên, mà còn là sự đáp lại tiếng gọi của Chúa, Đấng luôn dẫn dắt và mời gọi linh mục đến với những miền đất mới.

Việc thuyên chuyển không phải lúc nào cũng dễ dàng. Rời xa một giáo xứ, nơi đã gắn bó, nơi có những giáo dân thân yêu, là một thử thách lớn lao. Đôi khi, lệnh thuyên chuyển mang đến những cảm xúc cay đắng: tiếc nuối những kỷ niệm, băn khoăn trước những thử thách mới, hay thậm chí là lo lắng khi đến một nơi hoàn toàn xa lạ. Nhưng vượt qua tất cả, linh mục hiểu rằng lệnh thuyên chuyển là ý Chúa, và ý Chúa luôn mang đến sự ngọt ngào sau những giây phút đắng cay.

Mùa thuyên chuyển luôn là thời điểm đặc biệt với cả linh mục và giáo dân. Với giáo dân, sự chia tay mang đến nỗi buồn vì phải xa rời một người cha đã đồng hành với họ trong những năm tháng qua. Bao nhiêu giọt nước mắt đã rơi, bao nhiêu lời cảm ơn và tiếc nuối được thốt ra trong những buổi tiễn biệt. Nhưng đồng thời, đó cũng là lúc giáo dân mở lòng chào đón một vị linh mục mới, người sẽ tiếp tục sứ mạng mục tử tại giáo xứ.

Với linh mục, mùa thuyên chuyển không chỉ là một lần ra đi, mà là một cơ hội để bắt đầu lại. Dù có những khó khăn, nhưng đó cũng là cơ hội để gặp gỡ một cộng đoàn mới, chia sẻ tình yêu thương và học hỏi thêm những điều mới mẻ. Linh mục không ngừng bước đi, không ngừng dấn thân, và không ngừng trao ban.

Đời linh mục là hành trình "đi và đi mãi" cho đến ngày nghỉ hưu. Từng bước chân trên hành trình ấy là những cơ hội để linh mục sống trọn vẹn ơn gọi và thi hành sứ mạng Chúa trao. Mỗi lần thuyên chuyển, mỗi lần bắt đầu một chặng đường mới, là mỗi lần linh mục thêm cơ hội để sống tinh thần vâng phục và tín thác nơi Chúa.

Sự vâng phục không chỉ là một nhiệm vụ, mà còn là sự thể hiện niềm tin sâu sắc rằng Chúa luôn dẫn dắt và có kế hoạch tốt nhất cho mỗi người. Đi tu không phải là sống theo ý riêng, mà là đặt ý Chúa lên trên hết, để Ngài dẫn lối và biến đổi đời sống.

Buồn vui mùa thuyên chuyển là điều không thể tránh khỏi trong đời linh mục. Nhưng trên tất cả, đó là cơ hội để linh mục thể hiện sự tín thác tuyệt đối vào Chúa và sống đúng với ơn gọi của mình. Mỗi lần ra đi, dù có giọt nước mắt chia ly, nhưng đó cũng là dấu chỉ của tình yêu, sự gắn bó mà linh mục đã dành cho cộng đoàn của mình.

Nguyện xin Chúa luôn đồng hành và nâng đỡ các linh mục trên mọi nẻo đường sứ mạng, để các ngài luôn sẵn sàng bước đi, tiếp tục chăm sóc đoàn chiên của Chúa, và sống trọn vẹn đời sống dâng hiến của mình.

Lm. Anmai, CSsR


]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Tâm tình người con Giáo XứSun, 24 Nov 2024 09:07:24 +0700
Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nên mừng hay nên lo?http://gxthohoang.net:8181/tam-tinh-nguoi-con-giao-xu/item/19070-mung-le-cac-thanh-tu-dao-viet-nam-nen-mung-hay-nen-lohttp://gxthohoang.net:8181/tam-tinh-nguoi-con-giao-xu/item/19070-mung-le-cac-thanh-tu-dao-viet-nam-nen-mung-hay-nen-loMừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nên mừng hay nên lo?
  MỪNG LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM: NÊN MỪNG HAY NÊN LO?

Lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là dịp mừng kính các anh hùng đức tin đã dâng hiến mạng sống mình vì Chúa, mà còn là cơ hội để chúng ta soi xét lại đời sống đức tin của mình. Trong bối cảnh hiện nay, lễ này vừa là niềm hãnh diện vừa là lời nhắc nhở đầy chua xót. Liệu người tín hữu hôm nay có giữ được sự trung kiên như các bậc tiền nhân hay đã thỏa hiệp với những cám dỗ của thế gian? Hãy cùng nhìn lại ý nghĩa của ngày lễ này trong đời sống đạo đức hiện đại.

Ý nghĩa niềm vui của ngày lễ

Ngày lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam là niềm tự hào lớn lao của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Với hơn 130.000 người đã hy sinh mạng sống mình vì đức tin trong những thời kỳ cấm đạo khốc liệt, các ngài là chứng nhân sống động cho lòng trung thành với Chúa Kitô. Được phong hiển thánh, các ngài trở thành mẫu gương sáng ngời về lòng yêu mến Chúa và sự can đảm phi thường.

Mừng lễ hôm nay, chúng ta hân hoan vì nhờ sự hy sinh của các ngài, đức tin Công Giáo đã bén rễ sâu rộng tại Việt Nam. Các ngài là hạt giống đã nảy mầm và trổ sinh hoa trái dồi dào, làm nền tảng cho đời sống đức tin của chúng ta ngày nay.

Thách đố trong đời sống đức tin hiện đại

Dù không còn những cuộc bách hại đẫm máu như trong lịch sử, người tín hữu hôm nay vẫn phải đối mặt với những hình thức bách hại mới, tinh vi và dai dẳng hơn. Trong xã hội ngày càng bị thế tục hóa, đức tin bị thách thức bởi:

  • Chủ nghĩa vô thần duy vật: Nhiều người coi trọng vật chất, quyền lực và danh vọng hơn các giá trị thiêng liêng. Tiền bạc và thành công trở thành thước đo giá trị con người, làm lu mờ những giá trị Tin Mừng.
  • Sự thỏa hiệp với thế gian: Người tín hữu có nguy cơ chọn một thứ đạo dễ dãi, dung hòa với những trào lưu phóng khoáng, bỏ qua những nguyên tắc đạo đức căn bản để tránh xung đột với xã hội.
  • Môi trường sống phức tạp: Trong gia đình và cộng đồng, việc giữ vững đức tin có thể gây ra mâu thuẫn và căng thẳng. Sự xâu xé nội tâm giữa sống đạo và đáp ứng kỳ vọng của thế gian tạo ra những nỗi đau đớn không kém gì những khổ hình thể xác.

Những thách đố này khiến chúng ta tự hỏi: "Liệu mình có dám sống trung thành với Chúa như các Thánh Tử Đạo đã sống và chết vì đức tin không?"

Niềm vui hay nỗi lo?

Mừng lễ hôm nay, người tín hữu vừa hãnh diện vừa chua xót:

  • Hãnh diện, vì chúng ta có những chứng nhân anh hùng, những con người đã sống và chết một cách trọn vẹn cho đức tin. Các ngài là nguồn cảm hứng và động lực để chúng ta sống đạo mỗi ngày.
  • Chua xót, vì đức tin của chúng ta hôm nay không còn mạnh mẽ và tinh tuyền như xưa. Những thách thức về tinh thần và đạo đức đang bào mòn lòng trung thành với Chúa. Chúng ta có dám hy sinh lợi ích cá nhân, sự thăng tiến bản thân để sống Tin Mừng như các ngài không?

 Sống đức tin trong thời đại mới

Để noi gương các Thánh Tử Đạo, chúng ta cần nhận thức rằng đức tin hôm nay đòi hỏi những hy sinh không kém phần gian khó. Đó là sự từ bỏ những cám dỗ của tiền tài, quyền lực và danh vọng để sống công chính và yêu thương:

  • Chọn lựa Tin Mừng: Không thỏa hiệp với những giá trị trái ngược với đức tin. Điều này đòi hỏi sự can đảm và quyết tâm như các Thánh Tử Đạo.
  • Trung thành trong thử thách: Khi đối mặt với sự ngược đãi, phân biệt đối xử, hãy nhớ rằng đức tin không chỉ là lời nói mà còn phải được chứng minh bằng hành động.
  • Hy sinh vì đức tin: Hy sinh không chỉ là chết cho Chúa, mà còn là sống cho Chúa mỗi ngày. Hy sinh thời gian, công sức, và tài năng để phục vụ cộng đoàn và làm sáng danh Chúa.

. Lời mời gọi từ các Thánh Tử Đạo

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhắc nhở chúng ta rằng đức tin không phải là con đường dễ dàng, nhưng là con đường dẫn đến sự sống đời đời. Các ngài đã chọn chết cho đức tin, để nhờ đó chúng ta hôm nay được sống trong đức tin. Vậy chúng ta phải làm gì để xứng đáng với di sản ấy?

  • Trở thành chứng nhân: Dù trong hoàn cảnh nào, hãy sống sao cho người khác nhận ra Chúa qua cuộc đời mình.
  • Gieo hạt giống đức tin: Dạy dỗ con cháu, lan truyền Tin Mừng và xây dựng một đời sống đạo đức mạnh mẽ trong cộng đồng.
  • Hy vọng vào Chúa: Dù gặp khó khăn, hãy nhớ rằng phần thưởng dành cho những ai trung thành là được sống đời đời trong Thiên Quốc.

Mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta vừa vui mừng vừa tủi hổ. Vui mừng vì di sản đức tin các ngài để lại, nhưng cũng tủi hổ vì chưa sống xứng đáng với ơn gọi Kitô hữu. Lễ các Thánh Tử Đạo là lời mời gọi chúng ta sống đức tin một cách mạnh mẽ, trung thành và dấn thân, để mai sau, chúng ta cũng được cùng các ngài hưởng vinh quang Thiên Quốc. Hãy để đời sống chúng ta trở thành một bài ca chúc tụng Chúa, một minh chứng sống động cho tình yêu và lòng trung thành của người môn đệ Chúa Kitô.

Lm. Anmai, CSsR

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Tâm tình người con Giáo XứSun, 24 Nov 2024 08:52:37 +0700
Hai đồng tiền nhỏ của bà góahttp://gxthohoang.net:8181/suy-niem-loi-chua/item/19069-hai-dong-tien-ba-goahttp://gxthohoang.net:8181/suy-niem-loi-chua/item/19069-hai-dong-tien-ba-goaHai đồng tiền nhỏ của bà góa
  Hai đồng tiền nhỏ của bà góa

 

Thứ Hai tuần 34 Thường niên năm I - Cho đi (Lc 21,1-4)

 

 

 

Người liền nói:
“Thầy bảo thật anh em:
bà góa nghèo này
đã bỏ vào nhiều hơn ai hết”.
(Lc 21,3)

 

 

Hai đồng tiền nhỏ của bà góa (Lc 21,1-4)

 

  1. Đức Giêsu cùng với các môn đệ sau khi giảng dạy cho dân chúng trong Đền thờ, liền sau đó Thầy trò đi ra ngoài quan sát dân chúng dâng cúng để giúp cho Đền thờ; chính tại đây, Đức Giêsu đã giáo huấn các môn đệ về ý nghĩa và giá trị của việc dâng cúng. Khung cảnh của Tin mừng hôm nay nằm rất gần kho bạc vốn được dùng để chứa các đồ dâng cúng (x. 2V 12,10). Các thùng tiền dâng cúng được thiết kế theo hình dáng cái loa kèn và được đặt rất nhiều trong sân dành cho phụ nữ. Chính vì đặt trong địa thế như vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho giới quan sát là chính các luật sĩ và tay chân lân cận. Đức Giêsu cùng các môn đệ dễ dàng quan sát những thùng tiền cũng như những người bỏ tiền dâng cúng vào đó.

 

 

  1. Trong dòng người tấp nập bỏ tiền dâng cúng Đền thờ, Đức Giêsu đặc biệt chú ý đến người đàn bà goá nghèo nàn. Bà đã âm thầm bỏ vào 2 đồng tiền kẽm với giá trị chỉ bằng ¼ đồng bạc Rôma. Bởi dân Do thái thời Đức Giêsu đang bị đế quốc Rôma thống trị. Chính vì thế, người dân phải sử dụng đồng tiền Rôma trên đó có mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma. Đây là loại tiền bạc, một đồng cân nặng 3,8g và tương đương với 0,875 quan vàng. Thấy được như thế, chúng ta mới thấy rằng đồng tiền mà bà góa trong Tin mừng dâng cúng vốn giá trị chẳng đáng là gì, nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã khen: “Bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết”(Lc 21,3).
  2. Thiên Chúa ít để ý đến giá trị của dâng bề ngoài cho bằng tấm lòng nhiệt thành quảng đại của người dâng: “Thèm lòng chứ ai thèm thịt” hoặc “Cách cho quý hơn của cho”. Ý tưởng này giúp chúng ta ý thức hơn về những công việc phục vụ tha nhân, cũng như những công việc từ thiện bác ái hay dâng cúng của cải vật chất.

Tấm lòng của bà góa dành cho Chúa quả là lớn lao, vì nó đụng chạm đến sự sống của bà, bà đã dâng cho Chúa không phải của dư thừa, nhưng là tất cả cái mà bà có để sống. Tinh thần bác ái đích thực là biết chia sẻ cho tha nhân một phần sự sống, tức là những sự hy sinh của mình. Cũng vậy, chúng ta tỏ lòng mến Chúa bằng cách tự nguyện dâng hiến cho Chúa điều mà chúng ta có quyền được hưởng: sự nghèo khó, lòng thanh khiết và đức vâng lời.

  1. Ai cũng công nhận “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, nhưng người ta thường “xem mặt mà bắt hình dong”, dựa vào hình thức bên ngoài để đánh giá phẩm chất bên trong: Tuyển nhân viên mấy ai chọn tiêu chuẩn “xấu người đẹp nết” thay vì “ưu tiên có ngoại hình” ? Lắm khi người ta đánh giá sản phẩm chỉ dựa vào mẫu mã kiểu dáng bao bì bắt mắt. Người ta cũng dễ có xu hướng thẩm định giá trị của một người dựa vào của cải, địa vị, bằng cấp v.v... Đức Giêsu thì khác, Ngài thẩm định giá trị hành vi từ đáy lòng con người. Ngài cho biết: Dù chỉ bỏ hai đồng tiền vào thùng dâng cúng, bà góa nghèo đã bỏ nhiều hơn ai hết, vì đó là tất cả gia tài của bà! Bà đã dâng tất cả những gì bà có và dâng với cả tấm lòng (5 phút Lời Chúa).
  2. Một linh mục nọ có thói quen hằng ngày viết trong nhật ký số quà nhận được và số quà cho đi. Thỉnh thoảng ngồi kiểm lại, nếu thấy phần nhận nhiều hơn phần cho, vị linh mục ấy điều chỉnh lại điều phần cho nhiều hơn phần nhận.

Qua câu chuyện bà góa dâng hai đồng tiền kẽm vào Đến thờ, Đức Giêsu muốn dạy chúng bài học về việc cho đi cách quảng đại, cho đi mà không tính toán hơn thiệt, cho đi bằng cả tấm lòng. Khi chúng ta quảng đại cho đi cả những gì cần thiết để duy trì mạng sống mình, là lúc chúng ta đang cho đi chính bản thân. Xét cho cùng, lòng quảng đại chính là trao tặng chính bản thân mình, dâng hiến mạng sống mình cho tha nhân.

  1. Truyện: Bà Oseola Mc Carthy

Báo New York Times đưa tin bà Oseola Mc Carthy: Biểu tượng “Lòng từ thiện” của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 3/10/1999 ở tuổi 91.

Vào một ngày của tháng 7/1995, ông hiệu trưởng trường đại học phía bắc Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một phụ nữ xa lạ tên là Oseola Mc Carthy xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bổng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người. 

Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carthy tặng tất cả tiền bạc mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: “Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla”.

 

 

 

(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)


 

 

 

 

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Suy niệm Lời ChúaSun, 24 Nov 2024 08:37:28 +0700
Không thuộc về thế gianhttp://gxthohoang.net:8181/suyniem-suytu/item/19068-khong-thuoc-ve-the-gianhttp://gxthohoang.net:8181/suyniem-suytu/item/19068-khong-thuoc-ve-the-gianKhông thuộc về thế gian
  KHÔNG THUỘC VỀ THẾ GIAN


CHÚA KITÔ, VUA VŨ TRỤ, TUẦN XXXIV THƯỜNG NIÊN, NĂM B: https://tinyurl.com/kbmxh7ek


“Nước Tôi không thuộc về thế gian này!”.

“Những kẻ chinh phục thế giới - với những đội quân dũng mãnh và vũ khí khủng khiếp - tìm cách khuất phục nó trong vô vọng! Chúa Kitô chinh phục thế giới với một vũ khí đơn giản - “Tình Yêu”. Tim Ngài tan vỡ, để Ngài có thể ôm lấy những kẻ tan vỡ. Ngài trị vì thế gian, nhưng Vương Quốc Ngài không thuộc về thế gian!” - Dr. Anthony Fortosis.

Kính thưa Anh Chị em,

Long trọng mừng Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta tin Ngài là Vua vạn vật, Vua thiên đàng, Vua các linh hồn! Tuy nhiên, trong Tin Mừng hôm nay - trả lời Philatô - Ngài xác nhận, Ngài là Vua, nhưng Vương Quốc Ngài ‘không thuộc về thế gian’. Vậy nó ở đâu?

Trước hết, Ngài không phải là một vị vua thế gian, một người có quyền dân sự. Vì như thế, Ngài là kẻ thù của chính quyền Rôma. Điều này là bất hợp pháp và Ngài sẽ bị trừng phạt đến chết; đang khi Ngài hoàn toàn vô tội, hoàn hảo mọi đàng, kể cả việc tuân giữ mọi lề luật dân sự hợp pháp. Vậy thì Vương Quyền của Chúa Giêsu ở đâu?

Vương Quyền của Ngài ở trong các tâm hồn! Vương Quyền tình yêu, một Vương Quyền được Đaniel tiên báo, “Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong!” - bài đọc một. Đó là một Vương Quyền mà vì nó, “Ngài đã dùng máu Ngài mà rửa chúng ta sạch mọi tội lỗi, và đã làm cho chúng ta trở nên vương quốc và tư tế của Thiên Chúa” - bài đọc hai - hầu mỗi người có thể tuyên xưng “Chúa là vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào!” - Thánh Vịnh đáp ca. Vì vậy, với tuyên bố, “Nước Tôi không thuộc về thế gian này!”, Chúa Giêsu muốn nói, Vương Quốc của Ngài là Vương Quốc tình yêu; Ngài chiếm lãnh các trái tim bằng tình yêu, với tình yêu. Đó không phải là một đất nước cạnh tranh với chính quyền Rôma hay bất kỳ một cơ quan dân sự nào. Trước điều đó, Philatô tỏ ra lúng túng!

Ngày nay và cho đến muôn đời, Chúa Kitô luôn ước mong Vương Quốc Ngài trị vì khắp mọi nơi, trong mọi người. Ngài bắt đầu công việc này bằng việc chiếm ngự các tâm hồn; Ngài mời gọi chúng ta mở lòng đón tiếp Ngài. Ngài muốn thống trị mọi đam mê, ước muốn, suy nghĩ và hành động của chúng ta. Bên cạnh đó, Ngài còn muốn Vương Quốc phát triển! Điều này có nghĩa là khi trái tim của các nhà lãnh đạo, các bậc cha mẹ, những người đứng đầu ‘được biến đổi’, họ sẽ là những người ủng hộ, cộng tác và xây dựng Vương Quốc. Điều đó có nghĩa là mọi người, không trừ ai, được kêu gọi trở nên những con người xây dựng Nước Chúa ‘ở đây và lúc này’. Đó là những ai được giao cho chúng ta; và đến lượt họ, họ tiếp tục xây dựng Vương Quốc trong môi trường mình.

Anh Chị em,

“Nước Tôi không thuộc về thế gian này!”. “Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ mời gọi chúng ta để Ngài trở thành Vua của mình. Một vị Vua, bằng lời nói, gương sáng và cuộc sống hiến tế trên thập giá để cứu chúng ta khỏi chết, và vị Vua này chỉ ra con đường cho những ai lạc lối, mang ánh sáng mới cho những cuộc sống vốn bị hoen ố bởi nghi ngờ, sợ hãi và những thử thách hằng ngày!” - Phanxicô. Từ đó, noi gương Ngài, chúng ta làm tất cả những gì Chúa muốn và giúp người khác làm điều tương tự cho Vương Quốc.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin trị vì trái tim bất thường của con, giúp con chiến đấu cho Vương Quốc không bằng một sức mạnh nào - ngoài tình yêu và lòng thương xót của Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Suy Niệm - Suy TưSun, 24 Nov 2024 08:31:08 +0700
Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Namhttp://gxthohoang.net:8181/suy-niem-loi-chua/item/19066-le-cac-thanh-tu-dao-viet-namhttp://gxthohoang.net:8181/suy-niem-loi-chua/item/19066-le-cac-thanh-tu-dao-viet-namLễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
  LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

1 Cầu Nguyện Cho Những Người Bị Bách Hại

Hôm nay, trong ngày lễ kính các thánh tử đạo, chúng ta không chỉ tôn vinh những người đã hy sinh mạng sống vì đức tin, mà còn được mời gọi cầu nguyện cho những người đang phải chịu bách hại vì đức tin trên khắp thế giới. Di sản của các thánh tử đạo không chỉ là những tấm gương kiên cường mà còn là lời kêu gọi chúng ta hãy sống lòng thương xót và bác ái đối với những anh chị em đang chịu đau khổ.

Chúng ta được mời gọi cùng nhau nhìn lại di sản vô giá mà các thánh tử đạo đã để lại cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Khi nhớ đến các ngài, không thể không nhắc đến những đau khổ và thử thách mà họ đã trải qua. Họ đã đứng vững trước những cuộc tra tấn, những lời đe dọa và cả cái chết để giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa. Các thánh tử đạo không chỉ là những người chịu đựng, mà còn là những chứng nhân sống động cho đức tin, mang trong mình một sức mạnh vô biên.

Trước hết, chúng ta hãy suy ngẫm về lòng tin kiên cường của các thánh tử đạo. Họ đã sống trong thời đại mà niềm tin vào Chúa Kitô bị coi là mối đe dọa. Thay vì từ bỏ đức tin, họ đã chọn cái chết để làm chứng cho Chúa. Hành động này không chỉ là sự hy sinh cá nhân mà còn là một tuyên bố mạnh mẽ về sức mạnh của lòng tin. Họ đã cho thấy rằng đức tin không chỉ là một lý thuyết, mà là một cam kết sống động, mạnh mẽ đến nỗi có thể vượt qua cả những thử thách khắc nghiệt nhất.

Tấm gương của các ngài nhắc nhở chúng ta rằng, trong cuộc sống, chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thậm chí là những cám dỗ làm lung lay đức tin. Nhưng như các thánh tử đạo, chúng ta được kêu gọi phải kiên định, tìm kiếm sức mạnh từ Thiên Chúa và giữ vững niềm tin, bất kể hoàn cảnh có khó khăn đến đâu.

Bên cạnh lòng tin, các thánh tử đạo còn để lại cho chúng ta một di sản vô giá về tình yêu và sự hy sinh. Họ đã không chỉ sống cho bản thân mình mà còn vì lợi ích của cộng đồng và những người xung quanh. Họ đã chứng minh rằng tình yêu dành cho Thiên Chúa và lòng yêu quê hương không thể tách rời. Khi đứng trước sự chọn lựa giữa đức tin và sự an toàn cá nhân, họ đã chọn đức tin, cho thấy rằng tình yêu dành cho Thiên Chúa không chỉ là một lời nói, mà là một hành động cụ thể.

Sự hy sinh của các ngài là một lời nhắc nhở cho chúng ta rằng, trong thế giới đầy rẫy những khó khăn hiện nay, chúng ta cần sống tình yêu đó trong cuộc sống hàng ngày. Hãy tìm kiếm những cơ hội để phục vụ người khác, để thể hiện lòng yêu thương và sự quan tâm đến những người xung quanh.

Cuối cùng, di sản của các thánh tử đạo còn thể hiện ở sự đoàn kết và hiệp nhất trong cộng đồng tín hữu. Các ngài đã sống và chịu đựng không chỉ cho bản thân mà còn cho những người xung quanh. Họ đã tạo nên một cộng đồng đức tin mạnh mẽ, nơi mọi người có thể nâng đỡ và khích lệ lẫn nhau. Chúng ta cũng cần nhớ rằng, khi đối mặt với thử thách, chúng ta không đơn độc. Hãy đến với cộng đồng, gia đình, và bạn bè để chia sẻ nỗi lòng của mình.

Những người bị bách hại vì đức tin không chỉ tồn tại trong những câu chuyện xưa cũ. Ngày nay, trên khắp thế giới, hàng triệu tín hữu vẫn đang phải sống trong sợ hãi và áp lực. Họ bị cấm đoán thực hành đức tin của mình, bị tra tấn, thậm chí mất mạng chỉ vì đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Những hoàn cảnh bi đát đó không chỉ là một thực tế mà chúng ta cần nhận thức mà còn là một lời kêu gọi cho hành động và lòng thương xót.

Trong suốt lịch sử của Giáo hội, có rất nhiều vị thánh đã phải chịu đựng đau khổ, bách hại và cả cái chết chỉ vì họ trung thành với đức tin của mình. Nhưng xin đừng quên rằng, những người bị bách hại vì đức tin không chỉ tồn tại trong những câu chuyện xưa cũ. Ngày nay, trên khắp thế giới, hàng triệu tín hữu vẫn đang phải sống trong sợ hãi và áp lực.

Họ bị cấm đoán thực hành đức tin, bị tra tấn, và thậm chí mất mạng chỉ vì đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Những hoàn cảnh bi đát đó không chỉ là một thực tế mà chúng ta cần nhận thức; nó còn là một lời kêu gọi cho hành động và lòng thương xót.

Trong khi chúng ta tụ họp nơi đây, được tự do thờ phượng Thiên Chúa, hãy nhớ rằng có rất nhiều anh chị em tín hữu của chúng ta đang phải chịu đựng những khổ đau không thể tưởng tượng nổi. Họ đang phải đối mặt với sự đe dọa, bạo lực, và sự cô lập chỉ vì họ giữ vững đức tin của mình. Hãy dành một khoảnh khắc để suy ngẫm về những người đang sống trong những tình huống bi thảm này. Hãy để lòng thương xót của Thiên Chúa chạm đến chúng ta, để chúng ta không trở nên thờ ơ trước nỗi đau của người khác.

Cầu nguyện không chỉ là một hành động tôn kính; đó còn là một nguồn sức mạnh và hy vọng cho những người đang chịu bách hại. Hãy cầu xin Thiên Chúa ban cho họ sức mạnh, lòng kiên nhẫn và sự an ủi trong những thời khắc khó khăn. Cầu xin Ngài nâng đỡ họ để họ có thể cảm nhận được sự hiện diện và tình yêu của Ngài trong những giây phút tối tăm nhất.

Ngoài ra, chúng ta cũng hãy cầu xin Thiên Chúa mở rộng trái tim của những người bách hại. Có thể họ đang sống trong bóng tối của sự thiếu hiểu biết, và chỉ khi nhận ra tình yêu thương và lòng thương xót của Thiên Chúa, họ mới có thể thay đổi. Cầu xin Thiên Chúa ban cho họ ơn hoán cải, để họ có thể nhìn thấy giá trị của mỗi con người, và từ đó tạo nên một thế giới hòa bình hơn.

Cầu nguyện không chỉ dừng lại ở đó; chúng ta còn được kêu gọi hành động. Những gì chúng ta có thể làm để hỗ trợ những người bị bách hại? Hãy tìm hiểu về những tổ chức hỗ trợ tín hữu bị bách hại, tham gia vào các hoạt động nâng cao nhận thức, hoặc đơn giản là chia sẻ câu chuyện của họ với những người khác. Hãy cho họ thấy rằng họ không đơn độc trong cuộc chiến này.

Cầu nguyện là một phần quan trọng trong đời sống đức tin, nhưng chúng ta cũng cần nhớ rằng cầu nguyện không chỉ là hành động thụ động. Đức tin kêu gọi chúng ta hành động, để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa trong thế giới này. Chúng ta có thể tham gia vào các tổ chức nhân đạo, hỗ trợ các nạn nhân của bách hại, hoặc đơn giản là chia sẻ thông tin và nâng cao nhận thức về tình hình của những người bị bách hại.

Các thánh tử đạo đã hy sinh vì tình yêu dành cho Thiên Chúa và đồng bào. Họ đã để lại cho chúng ta một di sản của lòng thương xót, khích lệ chúng ta sống với tình yêu thương và lòng nhân ái. Chúng ta hãy lấy tấm gương của các ngài làm động lực để mở rộng vòng tay đón nhận những người đang chịu khổ. Đừng để những đau khổ của người khác trở thành vô hình trong cuộc sống của chúng ta.

Hôm nay, trong tâm tình hiệp thông và cầu nguyện, chúng ta hãy dâng lên Chúa những ý nguyện của mình cho những người bị bách hại vì đức tin. Xin cho lòng thương xót của Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc sống của họ, và cho chúng ta cũng biết sống như những thánh tử đạo, kiên định trong đức tin và tràn đầy tình yêu thương. Amen.


 

Lm. Anmai, CSsR

 


2  Sống Đạo Trong Thời Đại Mới

Hôm nay, chúng ta tụ họp nơi đây để kính nhớ các thánh tử đạo, những người đã sống và chết vì đức tin của mình. Họ là những tấm gương kiên cường, một minh chứng cho sức mạnh của đức tin ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Trong thế giới hiện đại hôm nay, khi mà đức tin của chúng ta thường phải đối mặt với những thách thức và phản đối, chúng ta cần học hỏi từ tấm gương của các ngài để sống đức tin một cách mạnh mẽ và kiên định.

Trong bối cảnh hiện đại, khi mà nhiều giá trị truyền thống đang bị thách thức, bài giảng hôm nay sẽ giúp chúng ta suy ngẫm về cách mà chúng ta có thể đối mặt với những thách thức này, cũng như học hỏi từ tấm gương kiên cường của các ngài.

Trong xã hội ngày nay, chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà nhiều giá trị truyền thống đang bị đặt câu hỏi. Đức tin Kitô giáo, một trong những nền tảng quan trọng của cuộc sống chúng ta, đôi khi bị xem nhẹ hoặc bị chỉ trích. Những quan điểm trái ngược về tôn giáo, đạo đức và giá trị gia đình ngày càng trở nên phổ biến. Điều này có thể khiến chúng ta cảm thấy đơn độc và áp lực trong việc duy trì đức tin.

Tuy nhiên, khi nhìn lại lịch sử của Giáo hội, chúng ta thấy rằng các thánh tử đạo đã đối mặt với những thử thách lớn lao hơn rất nhiều. Họ sống trong những thời điểm đầy gian khổ, khi mà đức tin của họ bị coi là mối đe dọa đối với quyền lực và trật tự xã hội. Thế nhưng, chính trong những hoàn cảnh đó, họ đã kiên định giữ vững niềm tin của mình và không ngần ngại hy sinh cả mạng sống để bảo vệ đức tin.

Tấm gương của các thánh tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng đức tin không phải là một lựa chọn dễ dàng. Nó đòi hỏi sự can đảm, kiên nhẫn và quyết tâm. Họ đã chứng minh rằng khi chúng ta đứng vững trong đức tin, chúng ta có thể vượt qua mọi thử thách và trở thành nguồn cảm hứng cho những người xung quanh. Chính sự kiên định của họ đã để lại một di sản vô giá cho chúng ta – di sản của lòng tin và sự hy sinh.

Hãy tự hỏi bản thân: Trong những tình huống khó khăn, tôi có đủ dũng cảm để đứng lên và bảo vệ đức tin của mình không? Chúng ta có thể học hỏi từ các thánh tử đạo, để sống đức tin của mình một cách mạnh mẽ và kiên định, bất chấp những khó khăn mà chúng ta phải đối mặt.

Đối mặt với những thách thức trong thế giới hiện đại, chúng ta cần trang bị cho mình những vũ khí tinh thần. Đó là cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa và sống trong tình yêu thương. Hãy tìm kiếm những cơ hội để làm chứng cho đức tin của mình, dù trong những hành động nhỏ bé nhất. Khi chúng ta sống với đức tin chân thành, chúng ta sẽ trở thành ánh sáng trong thế giới tăm tối, mang đến hy vọng và sự an ủi cho những người xung quanh.

Chúng ta cũng cần nhớ rằng chúng ta không đơn độc trong hành trình này. Cộng đồng giáo hội chính là nguồn sức mạnh để chúng ta hỗ trợ lẫn nhau. Khi cùng nhau cầu nguyện, chia sẻ và đồng hành, chúng ta sẽ cảm thấy vững vàng hơn trong đức tin.

Tưởng nhớ các thánh tử đạo, những người đã sống đức tin của mình với dũng cảm và kiên định. Tấm gương của họ không chỉ là một di sản vĩ đại cho chúng ta mà còn là một lời kêu gọi mạnh mẽ để mỗi người chúng ta sống đức tin một cách mạnh mẽ trong cuộc sống hàng ngày.

Để sống đức tin với dũng cảm, trước tiên, chúng ta cần nhận diện và trân trọng đức tin của mình. Đức tin không chỉ là một tập hợp các giáo lý hay quy tắc mà còn là một mối quan hệ sống động với Thiên Chúa. Hãy dành thời gian để cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, và suy niệm Lời Chúa. Những thực hành này sẽ không chỉ giúp chúng ta tăng cường mối quan hệ với Thiên Chúa mà còn là nguồn sức mạnh để chúng ta đối mặt với những thử thách trong cuộc sống.

Khi nhìn vào cuộc đời của các thánh tử đạo, chúng ta thấy rằng họ đã không chỉ sống cho bản thân mà còn vì một lý tưởng cao cả hơn – niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Họ đã hiểu rằng sự kiên định trong đức tin không phải là một cuộc chiến cá nhân, mà là một cuộc chiến vì tình yêu và sự cứu rỗi của nhiều người khác.

Hãy nhớ rằng đức tin không chỉ là một vấn đề cá nhân mà còn là một hành trình cộng đồng. Khi chúng ta sống trong tình yêu thương và hỗ trợ lẫn nhau, chúng ta tạo ra một môi trường mạnh mẽ cho đức tin phát triển. Như các thánh tử đạo đã từng trải qua những thử thách, chúng ta cũng cần nhau trong hành trình đức tin.

Trong những lúc khó khăn, hãy cùng nhau đứng vững. Chia sẻ những kinh nghiệm, khích lệ nhau giữ vững đức tin và sống theo lời Chúa. Một cộng đồng mạnh mẽ sẽ trở thành nguồn sức mạnh cho mỗi cá nhân, giúp chúng ta vượt qua những khó khăn và thách thức trong cuộc sống.

Dũng cảm sống đức tin không chỉ là việc đối mặt với sự bách hại hay khó khăn lớn lao. Đó cũng là những hành động nhỏ bé, như việc đứng lên bênh vực những giá trị đạo đức, sống thật với chính mình và sẵn sàng chia sẻ niềm tin của mình với người khác.

Trong môi trường hiện đại, chúng ta có thể gặp nhiều thử thách từ xã hội, nhưng hãy nhớ rằng sự dũng cảm bắt đầu từ những việc nhỏ nhất. Chúng ta có thể làm chứng cho đức tin của mình qua các hành động yêu thương, sự phục vụ và sự chân thành trong từng mối quan hệ.

Các thánh tử đạo, những người đã sống và hy sinh vì đức tin với một lòng yêu thương và sự kiên cường tuyệt vời. Di sản của các ngài không chỉ là những bài học về sự kiên định mà còn là một lời kêu gọi mạnh mẽ cho chúng ta: hãy trở thành dấu chỉ của tình yêu trong thế giới đầy khó khăn và thử thách này.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta được mời gọi trở thành những dấu chỉ của tình yêu và hy vọng. Hãy sống sao cho những người xung quanh nhận thấy được sự khác biệt trong cuộc sống của chúng ta. Điều này không có nghĩa là chúng ta phải thực hiện những việc lớn lao hay vĩ đại. Đôi khi, những hành động nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa lại có sức mạnh to lớn hơn cả.

Chúng ta có thể bắt đầu bằng việc giúp đỡ những người xung quanh, thể hiện lòng nhân ái đối với những ai cần sự giúp đỡ. Một nụ cười, một lời động viên hay một hành động nhỏ như giúp đỡ hàng xóm có thể tạo ra một làn sóng tích cực trong cộng đồng. Khi chúng ta sống tình yêu của Chúa trong những điều giản dị như vậy, chúng ta đang làm cho Ngài hiện diện giữa chúng ta.

Để trở thành dấu chỉ của tình yêu, chúng ta cũng cần dám nói lên sự thật của đức tin trong tình yêu thương. Trong thế giới mà nhiều giá trị bị chao đảo, đức tin của chúng ta cần được thể hiện một cách mạnh mẽ nhưng không kém phần tế nhị. Hãy nhớ rằng, khi chúng ta chia sẻ đức tin của mình, hãy làm điều đó với lòng yêu thương và sự tôn trọng đối với người khác.

Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, một trong những thánh tử đạo vĩ đại của chúng ta, đã không ngần ngại làm chứng cho đức tin của mình, ngay cả khi phải đối mặt với cái chết. Tấm gương của ngài nhắc nhở chúng ta rằng sống đức tin không chỉ là việc giữ kín những gì mình tin mà còn là một cuộc sống được thể hiện qua tình yêu thương và sự hy sinh.

Khi chúng ta sống đức tin một cách chân thành, chúng ta trở thành ánh sáng soi sáng cho những người đang tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống. Trong một thế giới đầy lo âu, bối rối và khổ đau, mỗi hành động yêu thương mà chúng ta thể hiện đều có thể giúp người khác tìm thấy hy vọng.

Hãy tưởng tượng, nếu mỗi tín hữu trong chúng ta đều trở thành một ánh sáng nhỏ, cùng nhau, chúng ta sẽ tạo ra một ánh sáng rực rỡ, xua tan bóng tối của sự tuyệt vọng và mang lại niềm hy vọng cho nhiều người.

Nhân ngày lễ các thánh tử đạo, chúng ta hãy cầu nguyện xin ơn Chúa để có thể sống đức tin của mình một cách mạnh mẽ và kiên định trong thời đại mới. Hãy học hỏi từ tấm gương của các thánh tử đạo, để dù phải đối mặt với bất kỳ thách thức nào, chúng ta cũng không bao giờ từ bỏ đức tin của mình.

Nguyện xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta sức mạnh, dũng cảm và tình yêu thương, để chúng ta có thể sống và làm chứng cho đức tin của mình giữa những thử thách của thế giới hiện đại. Amen.


Lm. Anmai, CSsR

 


3. THÁNH ANRÊ TRẦN AN DŨNG LẠC VÀ CÁC BẠN, TỬ ĐẠO


“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35)

Câu hỏi của thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma không chỉ là lời nhắc nhở về tình yêu vô biên của Thiên Chúa, mà còn là lời thách thức với mỗi Kitô hữu chúng ta. Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Câu trả lời được viết nên bằng chính máu của các thánh tử đạo, trong đó có thánh Anrê Trần An Dũng Lạc và các bạn tử đạo.

Kitô hữu bị thử thách không chỉ qua những bức bách thể lý mà còn bởi những cám dỗ hàng ngày. Nhiều khi, chúng ta "phớt lờ" giáo huấn Tin Mừng không phải vì bị đe dọa hay bắt bớ, mà vì những cám dỗ nhỏ bé: sợ thua thiệt, muốn chiếm hữu, hay chạy theo danh vọng. Chúng ta dễ dàng gục ngã trước ý riêng, sự nóng nảy, hay lòng ghen tị.

Đó là một dạng tử đạo, không phải bởi máu đổ đầu rơi, nhưng là sự tử đạo tâm linh — sự thất bại trước bản thân mình, sự không đủ can đảm để sống giáo huấn của Chúa Kitô.

Sự tử đạo không chỉ là cái chết vì đức tin, mà còn là sống trọn vẹn cho đức tin. Trong đời sống thường nhật, tử đạo là sự hy sinh, là nhẫn nhịn, là khiêm tốn hạ mình xuống để yêu thương, tha thứ và phục vụ.

Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân (Lumen Gentium) đã nhấn mạnh rằng: “Tất cả các tín hữu, bất kể cấp bậc hay địa vị nào, đều được kêu gọi đến sự viên mãn của đời sống Kitô hữu và đến sự hoàn hảo của đức ái.” Điều này nhắc nhở chúng ta rằng sự thánh thiện không phải là đặc ân của một số ít người, mà là lời mời gọi cho tất cả mọi người.

Lễ kính các thánh tử đạo không chỉ là một nghi thức trong nhà thờ, mà là lời mời gọi sống đức tin cách triệt để trong mọi hoàn cảnh. "Bàn thờ cuộc đời" chính là nơi mỗi chúng ta dâng lễ vật là chính bản thân mình, qua từng hành động nhỏ bé nhưng thấm đẫm tình yêu.

Thánh Anrê Trần An Dũng Lạc và các thánh tử đạo Việt Nam là những gương mẫu sáng ngời. Các ngài đã đối diện với gian truân, khổ đau, thậm chí cả cái chết, nhưng không bao giờ chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô.

Nhìn vào cuộc sống của các ngài, chúng ta được mời gọi tự hỏi: Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta có sẵn sàng chấp nhận những “tử đạo nhỏ” mỗi ngày không?

  • Khi chịu đựng một lời xúc phạm thay vì đáp trả.
  • Khi nhẫn nhịn người thân thay vì tức giận.
  • Khi tha thứ cho người làm tổn thương mình.

Tất cả những điều đó là tử đạo. Không phải máu đổ đầu rơi, nhưng là sự hy sinh lặng lẽ.

Tử đạo, hiểu theo nghĩa rộng hơn, chính là sống trọn vẹn cho tình yêu. Đức Kitô đã chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, và tình yêu ấy mời gọi chúng ta sống yêu thương một cách cụ thể.

Khi chúng ta sống với đức ái, chúng ta đang tử đạo. Khi chúng ta chọn Chúa thay vì chọn lợi ích cá nhân, chúng ta đang tử đạo.

Lễ kính các thánh tử đạo, đặc biệt là thánh Anrê Trần An Dũng Lạc và các bạn tử đạo, nhắc nhở chúng ta rằng: Tử đạo không chỉ là câu chuyện của những bậc anh hùng xuất chúng, mà là câu chuyện của mỗi người Kitô hữu.

Hãy biến mỗi ngày của chúng ta thành một cơ hội để sống tử đạo:

  • Hãy tử đạo bằng sự kiên nhẫn.
  • Hãy tử đạo bằng lòng quảng đại.
  • Hãy tử đạo bằng tình yêu thương tha thứ.

Hãy để tình yêu của Đức Kitô là động lực thúc đẩy chúng ta mỗi ngày. Như thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Xin các thánh tử đạo Việt Nam cầu thay nguyện giúp để chúng ta biết sống đức tin cách trọn vẹn, để không điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô.

 


Lm. Anmai, CSsR

 


]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Suy niệm Lời ChúaSun, 24 Nov 2024 07:38:35 +0700
Học hỏi Tin Mừng – Lễ Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ http://gxthohoang.net:8181/quà-tặng/tài-liệu-giáo-lý/item/19067-hoc-hoi-tin-mung-le-duc-fie-su-vua-vu-truhttp://gxthohoang.net:8181/quà-tặng/tài-liệu-giáo-lý/item/19067-hoc-hoi-tin-mung-le-duc-fie-su-vua-vu-truHọc hỏi Tin Mừng – Lễ Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ
  Học hỏi Tin Mừng – Lễ Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ Ga 18,33b-37

 

Học hỏi Tin Mừng –

Lễ Đức Giêsu Kitô Vua vũ trụ

Ga 18,33b-37

1 Sự đi lại của Philatô trong Ga 18,28 - 19,16: Tâm trạng phân vân và áp lực

Trong trình thuật Tin Mừng Ga 18,28 - 19,16, Thánh Gioan mô tả một phiên tòa đặc biệt khi Đức Giêsu bị đưa ra xét xử trước tổng trấn Philatô. Điểm nổi bật trong đoạn văn này là hành động đi ra, đi vào của Philatô. Ông liên tục di chuyển giữa đám đông bên ngoài và dinh thự của mình, nơi Đức Giêsu bị giam giữ. Sự di chuyển này, nếu đọc kỹ, diễn ra tổng cộng bảy lần, mỗi lần gắn với một diễn biến hoặc lời đối thoại quan trọng.

Những lần đi ra và đi vào của Philatô

Lần thứ nhất (Ga 18,29-33):

Philatô đi ra ngoài: Ông gặp dân chúng và hỏi họ cáo buộc Đức Giêsu về điều gì.

Tâm trạng: Tò mò và muốn hiểu lý do tại sao người Do Thái lại đưa Đức Giêsu đến với ông. Philatô, dường như, không có ý định kết án ngay từ đầu.

Lần thứ hai (Ga 18,33-38):

Philatô đi vào trong: Ông trở lại gặp Đức Giêsu để hỏi: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”

Tâm trạng: Hoang mang trước lời cáo buộc mang tính chính trị. Ông cố gắng xác định xem Đức Giêsu có phải là một mối đe dọa cho quyền lực Rôma hay không.

Lần thứ ba (Ga 18,38-40):

Philatô đi ra ngoài: Sau khi nghe Đức Giêsu nói về “Nước của Người không thuộc về thế gian này,” ông ra gặp dân chúng và tuyên bố: “Ta không thấy lý do nào để kết tội ông ấy.”

Tâm trạng: Lúng túng và do dự. Dù không thấy Đức Giêsu có lỗi gì, nhưng áp lực từ dân chúng khiến ông phải thỏa hiệp.

Lần thứ tư (Ga 19,1-4):

Philatô đi vào trong: Ông ra lệnh đánh đòn Đức Giêsu, có lẽ với hy vọng rằng hình phạt này sẽ làm dịu lòng dân. Sau đó, ông lại đi ra ngoài và nói: “Đây là người ấy!”

Tâm trạng: Bất lực và đang cố gắng xoa dịu đám đông mà không phải tuyên án tử cho Đức Giêsu.

Lần thứ năm (Ga 19,6-8):

Philatô đi vào trong: Khi dân chúng hô vang “Đóng đinh nó vào thập giá!”, Philatô đi vào để hỏi thêm Đức Giêsu.

Tâm trạng: Hoang mang và sợ hãi. Lời dân chúng “Người này tự xưng là Con Thiên Chúa” khiến Philatô bối rối và lo lắng về ý nghĩa thần linh.

Lần thứ sáu (Ga 19,9-12):

Philatô đi vào trong: Ông cố gắng thẩm vấn Đức Giêsu một lần nữa nhưng không nhận được câu trả lời rõ ràng.

Tâm trạng: Bị giằng xé giữa việc thực thi công lý và áp lực chính trị. Ông biết Đức Giêsu vô tội nhưng không dám đối diện với sự cuồng loạn của dân chúng.

Lần cuối cùng (Ga 19,13-16):

Philatô đi ra ngoài: Cuối cùng, ông đưa Đức Giêsu ra và nói với dân chúng: “Đây là vua các ngươi!” nhưng trước sự la ó và đe dọa, Philatô nhượng bộ và tuyên án tử hình.

Tâm trạng: Buông xuôi và đầu hàng trước áp lực. Ông từ bỏ trách nhiệm và “rửa tay” để tự biện minh cho mình.

Ý nghĩa của việc đi ra, đi vào: Tâm trạng giằng xé của Philatô

Hành động đi ra, đi vào liên tục của Philatô không chỉ đơn thuần là sự di chuyển về thể lý, mà còn là biểu tượng sâu sắc cho trạng thái nội tâm đầy giằng xé và mâu thuẫn của ông.

Giằng co giữa công lý và áp lực chính trị:

Philatô biết rõ Đức Giêsu vô tội, nhưng áp lực từ dân chúng, từ các thượng tế, và nỗi sợ mất lòng đế quốc Rôma khiến ông phải nhượng bộ. Ông muốn bảo vệ công lý nhưng không đủ can đảm để đối mặt với đám đông cuồng nộ.

Sự sợ hãi và bất an:

Khi nghe Đức Giêsu nói về “Nước không thuộc về thế gian này” và khi dân chúng tuyên bố rằng Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa,” Philatô bắt đầu sợ hãi. Là một người ngoại giáo, ông lo lắng rằng mình đang xét xử một nhân vật thần linh.

Tâm trạng lưỡng lự và buông xuôi:

Philatô cố gắng tìm cách giải quyết để không phải kết án tử hình Đức Giêsu. Tuy nhiên, sự thiếu quyết đoán của ông cuối cùng dẫn đến sự buông xuôi, khi ông chọn con đường dễ dàng nhất: nhượng bộ trước áp lực và để dân chúng quyết định.

Bài học cho chúng ta:

Hành trình đi ra, đi vào của Philatô là một lời cảnh tỉnh mạnh mẽ về cách con người đối diện với áp lực và trách nhiệm:

Can đảm đối diện với sự thật:

Philatô biết Đức Giêsu vô tội, nhưng ông không dám bảo vệ sự thật. Chúng ta được mời gọi sống can đảm để bảo vệ sự thật, ngay cả khi đối mặt với áp lực.

Trách nhiệm không thể né tránh:

Hành động “rửa tay” của Philatô không thể xóa bỏ trách nhiệm của ông. Chúng ta cũng vậy, không thể trốn tránh trách nhiệm bằng cách để người khác quyết định thay mình.

Chọn lựa giữa thế gian và Thiên Chúa:

Philatô đã chọn thế gian thay vì Thiên Chúa. Cuộc đời Kitô hữu luôn đặt chúng ta trước những lựa chọn khó khăn, nhưng chúng ta được mời gọi sống theo những giá trị của Tin Mừng, bất chấp áp lực từ xã hội.

Kết luận:

Qua trình thuật Ga 18,28 - 19,16, Thánh Gioan không chỉ kể lại một sự kiện lịch sử mà còn khắc họa một cuộc đấu tranh nội tâm đầy kịch tính. Philatô là một hình ảnh phản chiếu sự yếu đuối và do dự của con người khi đối mặt với áp lực. Chúng ta được mời gọi học hỏi từ sai lầm của ông để sống can đảm và trung thành với sự thật, dù phải đối mặt với bất kỳ thử thách nào.


 

2. Chú giải câu hỏi đầu tiên của Philatô khi gặp Đức Giêsu

Khi Philatô đối diện với Đức Giêsu trong cả bốn sách Tin Mừng, câu hỏi đầu tiên ông đặt ra luôn xoay quanh danh xưng của Đức Giêsu: “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?” (Mt 27,11; Mc 15,2; Lc 23,3; Ga 18,33). Dưới đây là chú giải ý nghĩa và bối cảnh của câu hỏi này qua từng trình thuật Tin Mừng.

 

1. Tin Mừng Mátthêu (Mt 27,11)

Câu hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?”

Chú giải:

Trong trình thuật của Mátthêu, câu hỏi của Philatô diễn ra ngay sau khi Đức Giêsu bị các thượng tế và kỳ mục tố cáo. Câu hỏi này phản ánh lời buộc tội chính: Đức Giêsu tự xưng là “Vua dân Do Thái,” một danh xưng mang tính chính trị và có thể bị xem là đe dọa đến quyền lực của đế quốc Rôma.

Đức Giêsu đáp: “Chính ngài nói đó”, một câu trả lời vừa khẳng định, vừa mời gọi Philatô tự suy xét. Đức Giêsu không phủ nhận danh xưng này, nhưng Ngài cũng không chấp nhận nó theo cách hiểu chính trị của Philatô hay các lãnh đạo Do Thái.

Ý nghĩa:

Câu hỏi này đặt trọng tâm vào sự hiểu lầm về vương quyền của Đức Giêsu. Ngài không phải là một vị vua trần thế, nhưng là Vua của Vương Quốc Thiên Chúa.

2. Tin Mừng Máccô (Mc 15,2)

Câu hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?”

Chú giải:

Trong Tin Mừng Máccô, câu hỏi này được trình bày ngắn gọn và đi thẳng vào trọng tâm. Philatô không quan tâm nhiều đến tôn giáo hay thần học, nhưng ông quan tâm đến các vấn đề chính trị, đặc biệt là những gì có thể đe dọa quyền lực của Rôma.

Câu trả lời của Đức Giêsu cũng giống như trong Mátthêu: “Chính ngài nói đó.”

Ý nghĩa:

Cách kể chuyện của Máccô tập trung vào tính khẩn trương và căng thẳng trong phiên tòa. Philatô không tìm hiểu sâu về danh tính của Đức Giêsu mà chỉ muốn nhanh chóng giải quyết tình thế.

3. Tin Mừng Luca (Lc 23,3)

Câu hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?”

Chú giải:

Trong trình thuật của Luca, câu hỏi của Philatô là phản ứng trực tiếp với lời buộc tội từ các thượng tế: “Chúng tôi thấy người này xúi giục dân, ngăn cản nộp thuế cho Xêda và tự xưng là Đấng Kitô, là Vua.” (Lc 23,2).

Đức Giêsu trả lời: “Chính ngài nói đó,” một cách khẳng định nhẹ nhàng nhưng không hoàn toàn theo cách hiểu chính trị của Philatô.

Ý nghĩa:

Luca nhấn mạnh rằng vương quyền của Đức Giêsu không phải là mối đe dọa cho quyền lực trần gian. Tuy nhiên, sự hiểu lầm về vương quyền này đã trở thành lý do dẫn đến bản án tử hình.

4. Tin Mừng Gioan (Ga 18,33)

Câu hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?”

Chú giải:

Trong trình thuật của Gioan, câu hỏi này xuất hiện trong một cuộc đối thoại chi tiết hơn giữa Philatô và Đức Giêsu. Đức Giêsu không trả lời ngay, mà hỏi lại Philatô: “Ngài tự ý nói điều đó, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” (Ga 18,34).

Đức Giêsu tiếp tục giải thích: “Nước của tôi không thuộc về thế gian này...” (Ga 18,36). Đây là lời khẳng định rõ ràng rằng vương quyền của Ngài không phải là quyền lực chính trị, mà là vương quyền thuộc về chân lý và tình yêu.

Ý nghĩa:

Gioan nhấn mạnh rằng vương quyền của Đức Giêsu vượt lên trên mọi khái niệm chính trị. Ngài là Vua của chân lý, và bất kỳ ai thuộc về chân lý đều nghe tiếng Ngài.

TỔNG HỢP Ý NGHĨA CỦA CÂU HỎI TRONG CẢ BỐN TIN MỪNG

Câu hỏi của Philatô:

Câu hỏi này cho thấy mối quan tâm chính của Philatô là vấn đề chính trị, vì danh xưng “Vua dân Do Thái” có thể được hiểu là một thách thức đối với quyền lực Rôma.

Tuy nhiên, sự thật về vương quyền của Đức Giêsu không thuộc về thế gian này, và Ngài không phải là mối đe dọa cho quyền lực chính trị.

Phản ứng của Đức Giêsu:

Đức Giêsu không phủ nhận danh xưng “Vua dân Do Thái,” nhưng Ngài làm sáng tỏ rằng vương quyền của Ngài không giống như vương quyền trần thế.

Ngài khẳng định rằng Nước của Ngài thuộc về chân lý và tình yêu, một vương quốc mà con người được mời gọi tham gia qua việc sống theo Tin Mừng.

Tâm trạng của Philatô:

Philatô bị giằng co giữa việc bảo vệ công lý và áp lực từ các lãnh đạo Do Thái. Ông không hiểu vương quyền của Đức Giêsu và do đó đã kết án tử hình Ngài để làm dịu lòng đám đông.

 

Bài học cho người Kitô hữu

Hiểu đúng về vương quyền của Đức Giêsu:
Đức Giêsu không đến để thống trị bằng quyền lực, mà để yêu thương và phục vụ. Ngài là Vua của chân lý, tình yêu và hòa bình. Chúng ta được mời gọi tham gia vào Vương Quốc của Ngài bằng cách sống theo các giá trị Tin Mừng.

Can đảm làm chứng cho chân lý:

Philatô do dự và không dám đứng lên bảo vệ sự thật. Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi can đảm sống và làm chứng cho chân lý, ngay cả khi đối mặt với áp lực hay sự hiểu lầm.

Chọn lựa vương quyền của Đức Giêsu:

Chúng ta cần tự hỏi: Đức Giêsu có thật sự là Vua trong cuộc đời mình chưa? Nếu đã chọn Ngài là Vua, chúng ta cần sống theo các giá trị của Nước Trời: yêu thương, tha thứ, và phục vụ.

Câu hỏi của Philatô “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?” không chỉ là câu hỏi dành cho Đức Giêsu, mà còn dành cho mỗi người chúng ta: “Bạn có chấp nhận Đức Giêsu là Vua và sống theo sự thật của Ngài không?”

 


 

3. Chú giải câu trả lời của Đức Giêsu trước câu hỏi của Philatô về vương quyền

Câu hỏi “Ông có phải là Vua dân Do Thái không?” được đặt ra bởi Philatô trong các trình thuật Tin Mừng (Mt 27,11; Mc 15,2; Lc 23,3; Ga 18,33-37). Đây không chỉ là câu hỏi mang tính chính trị, mà còn chạm đến trọng tâm sứ mạng của Đức Giêsu và ý nghĩa thực sự của vương quyền Ngài tuyên xưng. Câu trả lời của Đức Giêsu trong các Tin Mừng phản ánh sự khôn ngoan, khiêm nhường và ý thức rõ ràng về sứ mạng của Ngài.

1. Trình thuật của Mátthêu (Mt 27,11)

Câu trả lời của Đức Giêsu: “Chính ngài nói đó.”

Đức Giêsu không phủ nhận lời buộc tội nhưng cũng không khẳng định một cách trực tiếp theo ý nghĩa chính trị mà Philatô có thể hiểu. Câu trả lời này vừa là lời khẳng định, vừa mời gọi Philatô tự xem xét thực chất của vương quyền mà Ngài tuyên xưng.

Trong bối cảnh này, Đức Giêsu không hề biện hộ hay giải thích thêm. Ngài để câu trả lời mở, để Philatô tự suy xét, đồng thời nhấn mạnh rằng vương quyền của Ngài không giống như cách người đời hiểu về quyền lực trần thế.

2. Trình thuật của Máccô (Mc 15,2)

Câu trả lời của Đức Giêsu: “Chính ngài nói đó.”

Máccô cũng ghi lại câu trả lời tương tự. Tuy nhiên, trong Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu im lặng trước mọi lời buộc tội khác của các thượng tế và kỳ mục. Điều này làm nổi bật thái độ thản nhiên của Ngài trước phiên tòa bất công, đồng thời cho thấy rằng vương quyền của Ngài không cần phải biện hộ hay chứng minh.

Ý nghĩa:

Đức Giêsu không cố gắng bảo vệ mình, vì Ngài biết rằng vương quyền của mình không phụ thuộc vào sự công nhận của thế gian hay Philatô.

3. Trình thuật của Luca (Lc 23,3)

Câu trả lời của Đức Giêsu: “Chính ngài nói đó.”

Luca trình bày câu trả lời của Đức Giêsu một cách đơn giản và ngắn gọn. Tuy nhiên, trình thuật này được đặt trong bối cảnh lời buộc tội rõ ràng của các thượng tế: “Người này xúi giục dân, ngăn cản nộp thuế cho Xêda và tự xưng là Đấng Kitô, là Vua” (Lc 23,2).

Câu trả lời của Đức Giêsu một lần nữa không bác bỏ nhưng cũng không trực tiếp khẳng định theo nghĩa mà Philatô hay các thượng tế hiểu. Điều này cho thấy rằng vương quyền của Ngài không thuộc về trần gian.

4. Trình thuật của Gioan (Ga 18,34-37)

Trong Tin Mừng Gioan, câu trả lời của Đức Giêsu được trình bày chi tiết hơn qua một cuộc đối thoại ý nghĩa giữa Ngài và Philatô:

Câu trả lời của Đức Giêsu:

Đức Giêsu hỏi lại Philatô: “Ngài tự ý nói điều ấy, hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” (Ga 18,34).

→ Câu hỏi này mời gọi Philatô tự nhìn nhận động cơ của mình: Ông đang tìm kiếm sự thật hay chỉ hành động theo áp lực từ những người tố cáo Đức Giêsu?

Đức Giêsu tiếp tục giải thích: “Nước tôi không thuộc về thế gian này... Nước tôi không thuộc chốn này” (Ga 18,36).

→ Ngài khẳng định rằng vương quyền của mình không phải là quyền lực chính trị, mà là vương quyền của chân lý và tình yêu.

Khi Philatô hỏi: “Vậy ông là vua sao?” Đức Giêsu trả lời: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37).

Ý nghĩa:

Đức Giêsu khẳng định Ngài là vua, nhưng là vua của chân lý, không phải vua theo nghĩa chính trị hay quân sự.

Câu trả lời này cho thấy sự cao cả của vương quyền Đức Giêsu, vượt xa mọi quyền lực trần thế và hướng tới sứ mạng cứu độ toàn nhân loại.


Đức Giêsu có rõ ràng nhận mình là vua không?

Câu trả lời của Đức Giêsu trong cả bốn Tin Mừng đều cho thấy một sự khẳng định vương quyền, nhưng không theo cách mà thế gian thường hiểu về một vị vua. Ngài không hề phủ nhận danh xưng “Vua dân Do Thái,” nhưng Ngài làm sáng tỏ rằng:

Vương quyền của Ngài không thuộc về thế gian:
Đức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc chính trị hay lãnh thổ. Vương quốc của Ngài là vương quốc của chân lý, tình yêu và sự sống đời đời.

Vương quyền của Ngài mang tính siêu việt:

Ngài là vua không phải để thống trị, mà để yêu thương, phục vụ và hiến mạng sống vì đoàn dân của Ngài.

Lời mời gọi sống theo chân lý:

Những ai thuộc về chân lý và yêu mến sự thật sẽ nhận ra vương quyền của Đức Giêsu và đi theo Ngài.

Bài học cho người Kitô hữu

Chọn Đức Giêsu làm vua trong đời mình: Nhận Đức Giêsu làm vua không chỉ là tôn vinh Ngài, mà còn sống theo các giá trị Tin Mừng: yêu thương, tha thứ, phục vụ và làm chứng cho sự thật.

Sống trong vương quốc của chân lý: Đức Giêsu mời gọi chúng ta trở thành công dân của Vương Quốc Thiên Chúa bằng cách sống theo chân lý và tình yêu.

Can đảm đối diện với sự hiểu lầm: Đức Giêsu chấp nhận sự hiểu lầm và lên án bất công vì Ngài biết rõ sứ mạng của mình. Chúng ta cũng được mời gọi can đảm sống theo đức tin, dù đối diện với thách thức hay sự từ chối của thế gian.

Khi Đức Giêsu nói: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”, Ngài mời gọi chúng ta hướng lòng về một vương quốc vĩnh cửu, nơi tình yêu, chân lý và bình an ngự trị. Vậy, liệu chúng ta có sẵn sàng để Đức Giêsu trở thành vua của đời mình không?


4. Chú giải về việc tuyên xưng Đức Giêsu là “Vua của Israel” trong Tin Mừng Gioan

Tin Mừng Gioan chứa đựng nhiều khoảnh khắc và nhân vật khác nhau tuyên xưng hoặc nhắc đến Đức Giêsu với danh xưng “Vua của Israel.” Danh xưng này mang ý nghĩa thần học sâu sắc, cho thấy sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu và bản chất vương quyền của Ngài. Câu hỏi này mời gọi chúng ta phân tích kỹ lưỡng từng đoạn liên quan.

1. Ai tuyên xưng Đức Giêsu là “Vua của Israel”?

a) Nathanael (Ga 1,49)

Khi gặp Đức Giêsu lần đầu, Nathanael đã thốt lên: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel!”

Ngữ cảnh:

Nathanael, một người Do Thái đạo đức, nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia ngay sau khi Đức Giêsu cho biết về việc ông ngồi dưới cây vả trước khi được gọi.

Ý nghĩa:

Nathanael không chỉ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia mà còn là Vua đích thực của dân Israel, nhưng danh xưng này mang tính thần linh, không phải là vua theo nghĩa chính trị. Đây là một lời tuyên xưng đức tin, cho thấy Nathanael nhận ra sự cao cả của Đức Giêsu ngay từ khởi đầu.

b) Đám đông tại Giêrusalem (Ga 12,13)

Khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem, dân chúng cầm nhành lá thiên tuế và hô vang:

“Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa, Đức Vua của Israel!”

Ngữ cảnh:

Đây là biến cố Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem trước lễ Vượt Qua, được gọi là lễ Lá. Đám đông tung hô Ngài như Vua Mêsia, người mà họ kỳ vọng sẽ giải phóng Israel khỏi ách thống trị của Rôma.

Ý nghĩa:

Dân chúng thừa nhận Đức Giêsu là vua, nhưng ý niệm của họ mang màu sắc chính trị hơn là thần linh. Họ mong đợi một vị vua theo kiểu Đavit, trong khi Đức Giêsu là Vua của sự thật và tình yêu, không phải một vua chiến binh.

2. Philatô và lính Rôma có gọi Đức Giêsu là “Vua của Israel” không?

a) Philatô (Ga 18,33; 18,39; 19,19-22)

Ga 18,33: Philatô hỏi Đức Giêsu: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”

→ Câu hỏi này không phải là lời tuyên xưng, mà là một cách kiểm tra xem Đức Giêsu có phải là mối đe dọa chính trị đối với đế quốc Rôma hay không.

Ga 18,39: Philatô nói với dân chúng:
“Các ngươi có muốn ta tha vua dân Do Thái cho các ngươi không?”

→ Philatô dùng danh xưng “vua dân Do Thái” với thái độ mỉa mai, không phải là sự thừa nhận. Ông không hiểu ý nghĩa thật sự của vương quyền Đức Giêsu, chỉ xem đây là cách chế giễu lời buộc tội từ các lãnh đạo Do Thái.

Ga 19,19-22:Philatô truyền ghi trên tấm bảng gắn trên thập giá:
“Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái” (Ga 19,19).
Khi các thượng tế Do Thái phản đối và yêu cầu sửa lại, Philatô đáp:
“Điều ta đã viết, ta viết rồi” (Ga 19,22).

→ Hành động của Philatô có thể được hiểu là mỉa mai cả Đức Giêsu lẫn người Do Thái, nhưng trong thần học Gioan, đây là cách gián tiếp xác nhận vương quyền thật sự của Đức Giêsu. Thập giá trở thành ngai vàng của Ngài, nơi Ngài thể hiện tình yêu và sự cứu độ toàn nhân loại.

b) Lính Rôma (Ga 19,3)

Lính Rôma chế nhạo Đức Giêsu bằng cách đội vương miện gai lên đầu Ngài và nói: “Kính chào, Vua dân Do Thái!”

Ngữ cảnh:

Đây là một trò chế nhạo nhằm hạ nhục Đức Giêsu. Lính Rôma không thực sự công nhận Ngài là vua, mà xem đây là một cách trêu chọc lời buộc tội mà các thượng tế đã gán cho Ngài.

Ý nghĩa:

Hành động này phản ánh sự hiểu lầm và khinh thường vương quyền của Đức Giêsu. Tuy nhiên, trong ánh sáng của Tin Mừng, trò chế nhạo này lại làm nổi bật một sự thật: Đức Giêsu là vua, nhưng là vua của tình yêu và sự hy sinh.

 

3. Đức Giêsu là Vua theo nghĩa nào?

Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu được tuyên xưng là vua ở nhiều cấp độ:

Lời tuyên xưng thật sự:

Nathanael và đám đông tại Giêrusalem tuyên xưng Đức Giêsu là vua, nhưng ý nghĩa của họ khác nhau. Nathanael nhận ra vương quyền thần linh của Đức Giêsu, còn đám đông mong chờ một vị vua chính trị.

Lời tuyên bố gián tiếp:

Philatô và lính Rôma sử dụng danh xưng “vua dân Do Thái” với thái độ mỉa mai, nhưng qua ánh sáng thần học, đây lại là cách xác nhận vương quyền của Đức Giêsu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Vương quyền của chân lý và tình yêu:

Trong cuộc đối thoại với Philatô (Ga 18,36-37), Đức Giêsu khẳng định vương quyền của Ngài không thuộc thế gian này. Ngài đến để làm chứng cho sự thật và mời gọi mọi người bước vào vương quốc của Ngài bằng sự tự do và lòng tin.

Bài học thần học

Vương quyền của Đức Giêsu không dựa trên sức mạnh quân sự hay quyền lực chính trị, mà là vương quyền của chân lý, tình yêu và sự hy sinh. Thập giá chính là ngai vàng của Ngài.

Mỗi người Kitô hữu được mời gọi tuyên xưng Đức Giêsu là vua trong cuộc đời mình, không chỉ bằng lời nói, mà qua đời sống trung thành với sự thật, tình yêu và lòng nhân ái.

Kết luận

Tin Mừng Gioan không chỉ tường thuật lại những lời tuyên xưng hoặc chế nhạo về vương quyền của Đức Giêsu, mà còn mời gọi chúng ta suy tư sâu sắc về ý nghĩa thật sự của danh xưng “Vua của Israel.” Đức Giêsu không chỉ là vua của một dân tộc, mà là vua của toàn thể nhân loại, dẫn dắt chúng ta đến vương quốc đời đời, nơi chân lý và tình yêu ngự trị.


 

5 Chú giải về việc Đức Giêsu từ chối làm vua sau phép lạ bánh hóa nhiều (Ga 6,15)

1. Bối cảnh của Ga 6,15

Sau phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng kinh ngạc trước quyền năng của Đức Giêsu, vì Ngài đã làm phép lạ nuôi dưỡng hơn năm ngàn người bằng năm chiếc bánh và hai con cá. Họ nhận ra rằng Đức Giêsu có khả năng đáp ứng các nhu cầu vật chất của họ và bắt đầu suy nghĩ đến việc tôn Ngài làm vua. Ga 6,15 viết:

"Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lánh mặt, đi lên núi một mình."

Đoạn văn này cho thấy một sự khác biệt quan trọng giữa ý định của dân chúng và sứ mạng thực sự của Đức Giêsu. Ngài từ chối làm vua theo cách mà dân chúng mong muốn. Vậy, tại sao Ngài lại không muốn?

2. Đức Giêsu có muốn làm vua không?

a) Đức Giêsu không muốn làm vua theo nghĩa chính trị

Dân chúng muốn tôn Đức Giêsu làm vua vì họ kỳ vọng vào một Đấng Mêsia có quyền lực chính trị, giống như vua Đavit ngày xưa, để giải phóng họ khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma. Phép lạ bánh hóa nhiều càng củng cố niềm tin này, vì họ nghĩ rằng một vị vua có thể cung cấp lương thực cho họ sẽ là vị lãnh đạo lý tưởng.

Tuy nhiên, Đức Giêsu không đến để trở thành một vị vua theo nghĩa chính trị hoặc để thỏa mãn những mong muốn vật chất nhất thời của con người. Ngài đến để làm vua của sự thật và tình yêu, để thiết lập một vương quốc không thuộc thế gian này (Ga 18,36). Vì vậy, Ngài rút lui khi nhận ra ý định của dân chúng.

b) Đức Giêsu là vua, nhưng theo ý nghĩa khác

Mặc dù Đức Giêsu từ chối làm vua theo ý dân chúng, nhưng Ngài vẫn là vua, một vua theo nghĩa thiêng liêng. Vương quốc của Ngài không phải là một vương quốc trần thế, mà là vương quốc của Thiên Chúa, được xây dựng trên sự thật, tình yêu, và ơn cứu độ. Trong Ga 18,37, Đức Giêsu tuyên bố trước Philatô:

"Tôi là vua. Tôi sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi."

3. Tại sao Đức Giêsu không muốn làm vua theo ý dân chúng?

a) Tránh hiểu lầm về sứ mạng cứu độ

Dân chúng hiểu sai về sứ mạng của Đức Giêsu. Họ nghĩ rằng Ngài chỉ đến để đáp ứng nhu cầu vật chất và chính trị, trong khi mục tiêu chính của Ngài là cứu rỗi con người khỏi tội lỗi và đem họ vào sự sống đời đời. Đức Giêsu không muốn bị biến thành một nhà lãnh đạo trần thế, vì điều đó sẽ làm lu mờ ý nghĩa thiêng liêng của sứ mạng cứu độ.

b) Đối lập với kỳ vọng về Đấng Mêsia chính trị

Người Do Thái thời bấy giờ mong đợi một Đấng Mêsia đến để giải phóng họ khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma và khôi phục vinh quang của Israel. Nhưng Đức Giêsu không đến để thiết lập một vương quốc chính trị. Ngài đến để thiết lập một vương quốc vĩnh cửu, nơi con người được giải thoát khỏi tội lỗi và được sống trong tình yêu của Thiên Chúa.

c) Sứ mạng đòi hỏi sự hy sinh, không phải quyền lực

Sứ mạng của Đức Giêsu là hiến mạng sống mình để cứu độ nhân loại. Ngài biết rằng con đường của Ngài không phải là con đường quyền lực hay vinh quang theo kiểu thế gian, mà là con đường thập giá. Việc chấp nhận làm vua theo ý dân chúng sẽ đi ngược lại kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

d) Tính tự do trong lời mời gọi

Đức Giêsu không muốn ép buộc ai phải theo Ngài vì những lợi ích vật chất. Ngài mời gọi con người theo Ngài với lòng tự do, vì họ nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế, không phải vì những phép lạ hay những điều kiện trần thế.

4. Bài học từ việc Đức Giêsu từ chối làm vua

a) Đừng giới hạn Thiên Chúa trong những nhu cầu vật chất

Như dân chúng thời Đức Giêsu, đôi khi chúng ta cũng dễ dàng giới hạn niềm tin của mình vào Thiên Chúa chỉ dựa trên những nhu cầu và mong muốn trần thế. Nhưng Đức Giêsu mời gọi chúng ta vượt qua những giới hạn đó để tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu, như tình yêu, sự thật và sự sống đời đời.

b) Nhận ra vương quyền thiêng liêng của Đức Giêsu

Chúng ta cần hiểu rằng vương quyền của Đức Giêsu không dựa trên quyền lực hay sức mạnh chính trị, mà là quyền lực của tình yêu và sự hy sinh. Ngài là vua không phải để cai trị, mà để phục vụ và cứu độ.

c) Theo Đức Giêsu với lòng tự do

Đức Giêsu mời gọi chúng ta bước vào vương quốc của Ngài không vì những lợi ích vật chất, mà vì tình yêu đối với Thiên Chúa và khát khao sự thật. Đây là lời mời gọi tự do, không ép buộc.

5. Kết luận

Qua Ga 6,15, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu không muốn làm vua theo nghĩa chính trị hay để thỏa mãn những mong muốn nhất thời của dân chúng. Ngài từ chối vương quyền thế gian để thực hiện một sứ mạng cao cả hơn: thiết lập vương quốc của Thiên Chúa, nơi con người được sống trong sự thật và tình yêu. Chúng ta được mời gọi không chỉ nhìn nhận Đức Giêsu là vua, mà còn sống như công dân của vương quốc Ngài, tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu thay vì những điều tạm bợ.

 


6. Đức Giêsu kín đáo nhận mình là vua trong Ga 18,36 và sự liên hệ với Ga 6,15

1. Đức Giêsu có kín đáo nhận mình là vua trong Ga 18,36 không?

Trong Ga 18,36, Đức Giêsu nói với Philatô:

"Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra nước tôi không thuộc chốn này."

a) Câu trả lời khẳng định vương quyền

Câu trả lời của Đức Giêsu không phủ nhận rằng Ngài là vua. Ngược lại, Ngài khẳng định sự hiện hữu của một vương quốc mà Ngài là vua, nhưng vương quốc này không giống như những vương quốc trần thế. Việc sử dụng từ “nước tôi” cho thấy Ngài có một vương quốc và Ngài là người cai trị. Tuy nhiên, vương quyền này mang tính chất khác biệt, không dựa trên sức mạnh quân sự hay chính trị, mà là vương quốc thiêng liêng, dựa trên sự thật và tình yêu.

b) Khác biệt về tính chất vương quyền

Đức Giêsu nhấn mạnh rằng vương quốc của Ngài “không thuộc về thế gian này”. Đây là một tuyên bố quan trọng nhằm giải thích rằng Ngài không phải là một vua theo cách hiểu thông thường. Vương quốc của Đức Giêsu không được xây dựng trên quyền lực chính trị, bạo lực hay chiến tranh, mà là vương quốc của Thiên Chúa, nơi mọi người được mời gọi sống theo sự thật, công lý và tình yêu.

c) Cách trả lời khéo léo

Đức Giêsu trả lời một cách khéo léo để không trực tiếp kích động Philatô hoặc khiến ông hiểu lầm rằng Ngài đang chống lại quyền lực của Rôma. Đồng thời, Ngài vẫn khẳng định rằng Ngài là vua, nhưng không phải kiểu vua mà Philatô hoặc người Do Thái đang mong đợi.

2. Dựa vào đâu ta biết Đức Giêsu kín đáo nhận mình là vua?

Từ ngữ được sử dụng: Cụm từ “nước tôi” xuất hiện hai lần trong Ga 18,36. Điều này ngụ ý rõ ràng rằng Đức Giêsu là vua của một vương quốc.

Lời tuyên bố sau đó: Trong Ga 18,37, Đức Giêsu tiếp tục nói với Philatô: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.” Đây là một sự khẳng định trực tiếp về vương quyền của Ngài, nhưng nó được hiểu theo một chiều kích thiêng liêng.

Hành vi của Philatô: Sau lời tuyên bố này, Philatô không kết tội Đức Giêsu về bất kỳ âm mưu chính trị nào chống lại Rôma. Điều này cho thấy Philatô đã hiểu rằng vương quyền của Đức Giêsu không phải là mối đe dọa cho đế quốc, mà mang tính thiêng liêng.

3. Ga 18,36 có mâu thuẫn với Ga 6,15 không?

a) Nội dung Ga 6,15

Trong Ga 6,15, sau phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng muốn bắt Đức Giêsu tôn làm vua. Tuy nhiên, Đức Giêsu “lánh mặt, đi lên núi một mình”. Đây là hành động rõ ràng từ chối vương quyền theo kiểu thế gian, vì họ muốn tôn Ngài làm một vị vua chính trị để đáp ứng nhu cầu vật chất và giải phóng họ khỏi ách đô hộ của Rôma.

b) Sự khác biệt về vương quyền

Ga 6,15 và Ga 18,36 không mâu thuẫn mà bổ sung lẫn nhau. Hai câu này nói đến hai khía cạnh khác nhau của vương quyền Đức Giêsu:

Trong Ga 6,15: Đức Giêsu từ chối làm vua theo ý nghĩa trần thế, nơi vương quyền dựa trên sức mạnh quân sự, chính trị và đáp ứng nhu cầu vật chất.

Trong Ga 18,36: Đức Giêsu khẳng định mình là vua, nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này. Đây là vương quốc của Thiên Chúa, dựa trên sự thật và tình yêu.

c) Lý do không mâu thuẫn

Ga 6,15 và Ga 18,36 đều nói về cùng một sự thật: Đức Giêsu là vua, nhưng không phải là một vị vua theo kiểu trần thế. Ngài từ chối vương quyền chính trị để thực hiện sứ mạng thiêng liêng là cứu độ con người, thiết lập một vương quốc vĩnh cửu trong Thiên Chúa.

 

4. Ý nghĩa thần học

a) Vương quốc của Thiên Chúa

Ga 18,36 nhấn mạnh rằng vương quốc của Thiên Chúa không phải là một thực thể chính trị hay lãnh thổ, mà là nơi mà sự thật, tình yêu và công lý ngự trị. Những ai thuộc về sự thật sẽ nghe tiếng Ngài (Ga 18,37).

b) Từ bỏ tham vọng thế gian

Đức Giêsu từ chối làm vua theo ý nghĩa chính trị như trong Ga 6,15 vì Ngài muốn tránh xa những tham vọng thế gian và không để người khác hiểu sai về sứ mạng cứu độ của Ngài. Vương quyền của Ngài là một lời mời gọi tự do, không dựa trên áp đặt hay lợi ích vật chất.

c) Lời mời gọi sống trong sự thật

Cả hai đoạn văn đều mời gọi chúng ta nhìn nhận Đức Giêsu là vua theo nghĩa thiêng liêng. Sự thật và tình yêu là cốt lõi của vương quốc Ngài, và chúng ta được mời gọi làm công dân của vương quốc này bằng cách sống theo các giá trị Tin Mừng.

5. Kết luận

Ga 18,36 cho thấy Đức Giêsu kín đáo nhận mình là vua, nhưng là vua của một vương quốc không thuộc về thế gian. Ga 6,15 không mâu thuẫn với điều này, mà nhấn mạnh rằng Ngài từ chối vương quyền chính trị để thực hiện một sứ mạng thiêng liêng cao cả hơn. Qua đó, chúng ta được mời gọi nhận ra vương quyền của Đức Giêsu và sống theo các giá trị của vương quốc Ngài: sự thật, tình yêu và công lý.

 


 

7.  Luận chú giải: Sứ mạng của Vua Giêsu và Sự thật mà Người làm chứng

1. Ga 18,37: Sứ mạng của Vua Giêsu

Trong Ga 18,37, Đức Giêsu tuyên bố với Philatô:

"Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi."

Câu trả lời này mang tính khẳng định hai điều:

a) Vương quyền của Đức Giêsu

Đức Giêsu thừa nhận mình là vua, nhưng đồng thời Ngài làm rõ rằng vương quyền của Ngài không mang tính chất chính trị hay quân sự như Philatô hoặc người Do Thái nghĩ. Đây là vương quyền thiêng liêng thuộc về sự thật và tình yêu, không phải quyền lực áp đặt hay cưỡng chế.

b) Sứ mạng làm chứng cho sự thật

Đức Giêsu nhấn mạnh mục đích của sự hiện diện của Ngài trong thế gian là để "làm chứng cho sự thật". Đây chính là trọng tâm sứ mạng của Ngài. Ngài đến để tỏ bày sự thật về Thiên Chúa, về kế hoạch cứu độ, và về cách con người sống trong mối tương quan đúng đắn với Thiên Chúa và tha nhân.

2. Ga 17,3: Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng

Trong Ga 17,3, Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha:

"Sự sống đời đời chính là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô."

Câu này tiết lộ nội dung của "sự thật" mà Đức Giêsu làm chứng:

a) Sự thật về Thiên Chúa

Sự thật cốt lõi mà Đức Giêsu làm chứng là Thiên Chúa là Cha duy nhất, chân thật, và Ngài là nguồn mạch của sự sống. Đức Giêsu đến để mặc khải bản tính tình yêu của Thiên Chúa và mời gọi mọi người sống trong mối tương quan mật thiết với Ngài.

b) Sự thật về Đức Giêsu

Đức Giêsu làm chứng rằng Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến để thực hiện kế hoạch cứu độ. Ngài là Con Thiên Chúa, là Đường, Sự Thật và Sự Sống (Ga 14,6). Sự sống đời đời không phải chỉ là cuộc sống trong tương lai, mà bắt đầu ngay từ việc nhận biết Đức Giêsu và tin vào sứ mạng của Ngài.

c) Sự thật về sự sống đời đời

Đức Giêsu làm chứng rằng sự sống đời đời không phải là một thực tại vật chất, mà là sự kết hiệp với Thiên Chúa. Đây là sự thật cao cả nhất, vượt trên mọi hiểu biết thế gian, và chỉ có thể được đạt đến qua đức tin.

3. Ý nghĩa thần học của "sự thật"

a) Sự thật là mặc khải về Thiên Chúa

Đức Giêsu làm chứng về sự thật qua lời giảng dạy và hành động của Ngài, nhưng cao điểm của sự thật được bày tỏ qua cái chết và sự phục sinh. Sự thật này khẳng định tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

b) Sự thật là ánh sáng soi đường

Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng không chỉ là những khái niệm trừu tượng mà là một thực tại sống động, dẫn dắt con người ra khỏi bóng tối của tội lỗi và cái chết, hướng họ đến ánh sáng của sự sống đời đời.

c) Sự thật mang tính giải phóng

Trong Ga 8,32, Đức Giêsu nói: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi." Sự thật mà Đức Giêsu làm chứng mang lại sự tự do thật sự, giải phóng con người khỏi sự nô lệ của tội lỗi và sự chết.

4. Sứ mạng và sự thật trong bối cảnh đối thoại với Philatô

Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Philatô đặt sứ mạng và sự thật trong bối cảnh căng thẳng giữa vương quyền trần thế và vương quyền thiêng liêng:

a) Philatô đại diện cho quyền lực trần thế

Philatô quan tâm đến khái niệm vương quyền theo nghĩa chính trị, lo ngại rằng Đức Giêsu có thể đe dọa sự ổn định của đế quốc Rôma.

b) Đức Giêsu làm rõ bản chất vương quyền của Ngài

Đức Giêsu không chỉ phủ nhận tham vọng quyền lực trần thế mà còn mời gọi Philatô (và qua đó, nhân loại) nhận biết sự thật. Vương quyền của Ngài không dựa trên bạo lực hay quyền lực, mà trên sự thật và tình yêu.

5. Ga 18,37 và Ga 17,3: Sự kết nối hài hòa

Hai câu Ga 18,37 và Ga 17,3 không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau:

Trong Ga 18,37, Đức Giêsu nói rõ mục đích hiện diện trong thế gian: làm chứng cho sự thật. Điều này cho thấy bản chất của Ngài là Đấng đến từ Thiên Chúa để mặc khải sự thật.

Trong Ga 17,3, Đức Giêsu xác định nội dung cụ thể của sự thật mà Ngài làm chứng: sự nhận biết Thiên Chúa chân thật và Đức Giêsu là Đấng được sai đến.

Cả hai câu cùng hướng về sứ mạng mặc khải Thiên Chúa và mời gọi con người bước vào sự sống đời đời.

6. Ý nghĩa cho đời sống Kitô hữu

a) Sống trong sự thật

Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi sống trong sự thật, nghĩa là tin vào Thiên Chúa, làm chứng cho tình yêu của Ngài và trung thành với Tin Mừng.

b) Làm chứng cho vương quốc của Thiên Chúa

Giống như Đức Giêsu, Kitô hữu được mời gọi làm chứng cho vương quốc của Thiên Chúa bằng cách sống đời sống công lý, yêu thương, và hòa bình.

c) Tìm kiếm sự sống đời đời

Sự thật cao cả nhất là sự sống đời đời, được bắt đầu từ việc nhận biết và kết hiệp với Thiên Chúa. Đây là mục đích tối hậu mà mỗi Kitô hữu được mời gọi theo đuổi.

7. Kết luận

Trong Ga 18,37, Đức Giêsu khẳng định sứ mạng làm chứng cho sự thật, và sự thật này được diễn tả rõ ràng trong Ga 17,3: sự nhận biết Thiên Chúa và Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ. Sứ mạng của Đức Giêsu không chỉ là mặc khải Thiên Chúa, mà còn dẫn con người vào sự sống đời đời. Kitô hữu được mời gọi sống theo sự thật này, trở thành nhân chứng trung thành cho vương quốc tình yêu và công lý của Thiên Chúa.

 


 

8. Chú Giải: Ai Là Người Thuộc Về Nước Của Vua Giêsu?

1. Ga 18,37 – Lời khẳng định của Chúa Giêsu

"Ông nói đúng: Tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi."

Trong bối cảnh Chúa Giêsu đối diện với Philatô, Ngài khẳng định rằng Ngài là Vua, nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này (Ga 18,36). Vương quốc mà Chúa Giêsu thiết lập là vương quốc của sự thật, tình yêu và sự sống.

Người thuộc về Nước của Vua Giêsu là người "đứng về phía sự thật" – tức là người chấp nhận sự thật mà Chúa Giêsu mặc khải. Sự thật này không chỉ là những điều hiểu biết lý trí, mà chính là bản thân Ngài, như Ngài đã tuyên bố: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6).

2. Ga 10,26-27 – Tiếng gọi của Mục Tử

"Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi."

Chúa Giêsu dùng hình ảnh Người Mục Tử để minh họa mối tương quan giữa Ngài và những ai thuộc về Ngài. Người thuộc về Nước của Ngài là "chiên" trong đàn của Người, tức là những ai:

Nghe tiếng Chúa: Họ lắng nghe Lời Chúa và để Lời ấy hướng dẫn cuộc sống.

Được Chúa biết đến: Đây không chỉ là sự nhận biết bình thường, mà là mối tương quan yêu thương và thân mật.

Theo Chúa: Họ bước đi theo sự hướng dẫn của Chúa, sống theo giáo huấn của Ngài.

Người không tin hoặc từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu là người "không thuộc về đoàn chiên." Điều này không phải vì Chúa loại trừ họ, mà vì họ tự ý không lắng nghe và không đáp lại tiếng gọi của Ngài.

3. Tóm Lại: Ai Là Người Thuộc Về Nước Của Vua Giêsu?

Người thuộc về Nước của Vua Giêsu là những ai:

Chấp nhận sự thật của Chúa Giêsu: Tin nhận Ngài là Đấng Cứu Độ, Đấng mặc khải sự thật tối hậu về Thiên Chúa và con người.

Nghe và đáp lại tiếng Chúa: Lắng nghe Lời Ngài, để lời ấy hướng dẫn cuộc đời và sống theo sự thật.

Sống dưới sự lãnh đạo của Ngài: Họ sẵn sàng bước theo Chúa Giêsu, sống trong tình yêu, niềm tin, và hy vọng.

Nước của Vua Giêsu không thuộc về thế gian này, nhưng những ai thuộc về Ngài sẽ là người mang ánh sáng Nước Trời đến cho thế gian. Sự thuộc về này đòi hỏi niềm tin, lòng trung thành và sự sẵn lòng sống theo giáo huấn của Ngài.

 


 

SỐNG THEO GIÁ TRỊ CỦA NƯỚC THIÊN CHÚA SẼ THUỘC VỀ NƯỚC THIÊN CHÚA

Hôm nay, chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Kitô Vua, một dịp để chúng ta suy ngẫm về vai trò của Chúa Giêsu như một Vua, không chỉ trong vương quốc thiên đàng mà còn trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Với danh hiệu là Vua, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống theo những giá trị của Nước Thiên Chúa, những giá trị căn bản như tình yêu, tha thứ và lòng nhân ái.

Tình yêu là giá trị cốt lõi của Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói: “Điều răn thứ nhất là: Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, bằng cả lòng, cả linh hồn và cả trí khôn ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình” (Mt 22:37-39). Tình yêu không chỉ là cảm xúc, mà là hành động. Nó thể hiện qua cách chúng ta đối xử với nhau, trong từng cử chỉ, lời nói và hành động hàng ngày.

Chúng ta cùng nhau suy ngẫm về một trong những giá trị cốt lõi nhất của Nước Thiên Chúa: Tình yêu. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng tình yêu không chỉ là một cảm xúc, mà là một hành động, là một sự lựa chọn, và là điều cốt yếu mà mỗi người chúng ta cần sống và thực hiện trong cuộc đời.

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh rằng “Điều răn thứ nhất là: Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, bằng cả lòng, cả linh hồn và cả trí khôn ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình” (Mt 22:37-39). Tình yêu không chỉ dừng lại ở những từ ngữ, mà nó được hiện thực hóa qua những hành động cụ thể trong cuộc sống hàng ngày.

Tình yêu là sợi dây kết nối chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. Nó giúp chúng ta vượt qua những rào cản, những khác biệt và hiểu lầm. Khi chúng ta yêu thương, chúng ta mở ra cánh cửa cho sự tha thứ và hòa giải. Tình yêu là động lực để chúng ta hành động vì lợi ích của người khác, là nguồn sức mạnh để chúng ta vượt qua những thử thách.

Trong thế giới hiện đại, có rất nhiều thứ khiến chúng ta bị cuốn vào những lo toan cá nhân, những mâu thuẫn và căng thẳng. Áp lực công việc, gia đình và xã hội có thể khiến chúng ta quên đi giá trị của tình yêu. Nhưng khi chúng ta sống theo giá trị của tình yêu, mọi thứ sẽ thay đổi.

Hãy để tình yêu của Chúa Giêsu dẫn dắt chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Điều này bắt đầu từ những việc nhỏ bé trong cuộc sống hàng ngày. Một lời chào hỏi, một nụ cười, hay chỉ đơn giản là sự lắng nghe cũng có thể mang lại niềm vui và hạnh phúc cho người khác. Hãy chăm sóc gia đình của chúng ta bằng tình yêu thương, tạo dựng một môi trường ấm cúng và hỗ trợ lẫn nhau. Khi mỗi người trong gia đình đều cảm nhận được tình yêu, họ sẽ lớn lên trong sự an toàn và hạnh phúc.

Tình yêu không chỉ giới hạn trong gia đình mà còn phải được mở rộng ra cộng đồng. Chúng ta được mời gọi để yêu thương những người xung quanh, không chỉ là bạn bè, mà cả những người lạ, những người đang cần sự giúp đỡ. Điều này có thể là tham gia vào các hoạt động từ thiện, giúp đỡ những người vô gia cư, hoặc đơn giản là dành thời gian để lắng nghe và chia sẻ với những ai đang gặp khó khăn.

Khi chúng ta sống với tình yêu thương, chúng ta trở thành những người xây dựng Nước Thiên Chúa ngay tại trần gian này. Mỗi hành động yêu thương đều là một bước tiến nhỏ trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.

Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta dễ dàng bị cuốn vào những lo toan cá nhân, những mâu thuẫn và căng thẳng trong xã hội. Nhưng khi chúng ta sống theo giá trị của tình yêu, chúng ta sẽ thấy được sự thay đổi tích cực trong cuộc sống của chính mình và của những người xung quanh. Hãy để tình yêu của Chúa Giêsu dẫn dắt chúng ta trong mọi hoàn cảnh, từ việc chăm sóc gia đình đến cách mà chúng ta tương tác với cộng đồng.

Một giá trị khác không thể thiếu trong Nước Thiên Chúa là tha thứ. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: “Nếu anh em không tha thứ cho người khác, thì Cha của anh em trên trời cũng sẽ không tha thứ cho anh em” (Mt 6:15). Tha thứ không chỉ là một hành động tốt đẹp, mà còn là sức mạnh để giải phóng chính bản thân chúng ta khỏi những gánh nặng của oán hận và hận thù.

Chúng ta cùng nhau suy ngẫm về một giá trị quan trọng trong Nước Thiên Chúa: đó là tha thứ. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng “Nếu anh em không tha thứ cho người khác, thì Cha của anh em trên trời cũng sẽ không tha thứ cho anh em” (Mt 6:15). Câu Kinh Thánh này không chỉ là một lời nhắc nhở mà còn là một sự mời gọi mạnh mẽ đến mỗi chúng ta.

Tha thứ không chỉ là một hành động tốt đẹp mà còn là sức mạnh để giải phóng chính bản thân chúng ta khỏi những gánh nặng của oán hận và hận thù. Khi chúng ta giữ trong lòng những cảm xúc tiêu cực, chúng ta tự ràng buộc chính mình trong những dây xích của sự tức giận, đau khổ và chua chát. Sự tha thứ chính là chìa khóa mở ra cánh cửa của tự do. Nó cho phép chúng ta thoát khỏi quá khứ, để không bị nó chi phối trong hiện tại.

Chúng ta thường nghe rằng "tha thứ là món quà." Đúng vậy! Món quà này không chỉ dành cho người khác, mà còn là món quà dành cho chính mình. Khi chúng ta tha thứ, chúng ta đang tự giải phóng mình khỏi những cảm xúc tiêu cực, để có thể sống trọn vẹn và hạnh phúc hơn.

Trong cuộc sống, chúng ta không thể tránh khỏi việc bị tổn thương bởi những người xung quanh. Có thể là từ những người thân yêu, bạn bè hoặc đồng nghiệp. Những tổn thương này có thể để lại trong chúng ta những vết thương sâu sắc, làm cho chúng ta cảm thấy khó khăn trong việc tiếp tục sống. Nhưng tha thứ là cách mà Chúa mời gọi chúng ta trở thành những người tự do, không bị ràng buộc bởi quá khứ.

Khi chúng ta chọn tha thứ, chúng ta cũng đang mở ra cơ hội cho những người đã tổn thương chúng ta. Tha thứ không chỉ giúp chúng ta giải phóng chính mình mà còn cho phép họ có cơ hội thay đổi và trở lại với Chúa. Chúng ta hãy nhớ rằng, trong con mắt của Chúa, không ai là không thể thay đổi. Mỗi người đều có khả năng để hối cải và sống tốt hơn.

Hãy để tình yêu và lòng thương xót của Chúa Giêsu hướng dẫn chúng ta trong hành trình tha thứ. Ngài đã dạy chúng ta rằng, khi chúng ta tha thứ cho người khác, chúng ta không chỉ thực hiện một hành động mà còn đang thực hiện ý muốn của Thiên Chúa. Một trong những hình ảnh tuyệt vời về sự tha thứ là khi Chúa Giêsu trên thập giá đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Ngài đã tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Ngài, ngay cả khi Ngài đang chịu đựng sự đau đớn và nhục nhã.

Chúng ta hãy suy ngẫm về những điều đó trong cuộc sống của mình. Hãy tự hỏi bản thân: “Có ai đó mà tôi cần tha thứ không?” Hay “Có những mối quan hệ nào trong đời tôi đang bị rạn nứt vì oán hận và sự thiếu tha thứ?” Hãy can đảm thực hiện bước đi này. Tha thứ không chỉ là một hành động, mà là một hành trình.

Trong cuộc sống, chúng ta không thể tránh khỏi việc bị tổn thương bởi những người xung quanh. Tuy nhiên, tha thứ là cách mà Chúa mời gọi chúng ta trở thành những người tự do, không bị ràng buộc bởi quá khứ. Hãy nhớ rằng, khi chúng ta tha thứ cho người khác, chúng ta cũng mở ra cơ hội cho họ để thay đổi và trở lại với Chúa. Tha thứ không chỉ là món quà cho người khác mà còn là món quà cho chính mình.

Lòng nhân ái là một giá trị quan trọng khác của Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã sống và dạy về lòng nhân ái qua những hành động cụ thể, từ việc chữa lành người bệnh đến việc nuôi dưỡng những người đói khát. Ngài không chỉ là một người nói, mà còn là một người hành động. Chúng ta cũng được kêu gọi để thể hiện lòng nhân ái trong cuộc sống hàng ngày.

Hãy tìm kiếm những cơ hội để giúp đỡ những người xung quanh, từ việc tham gia vào các hoạt động từ thiện, cho đến việc lắng nghe và hỗ trợ những ai đang cần. Mỗi hành động nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa đều có thể tạo ra sự khác biệt lớn trong cuộc sống của người khác. Khi chúng ta sống với lòng nhân ái, chúng ta đang hiện thực hóa giá trị của Nước Thiên Chúa ngay trên trần gian.

Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất trong cuộc sống hàng ngày. Một nụ cười, một lời hỏi thăm, hay một hành động giúp đỡ có thể mang lại ánh sáng cho cuộc sống của người khác. Chúng ta không cần phải thực hiện những hành động lớn lao, mà chỉ cần kiên định sống với tình yêu, tha thứ và lòng nhân ái.

Khi chúng ta sống theo giá trị của Nước Thiên Chúa, chúng ta không chỉ trở thành con cái của ánh sáng mà còn là những chứng nhân cho tình yêu và lòng nhân ái của Chúa trong thế giới này. Hãy nhớ rằng, chúng ta được mời gọi không chỉ để sống cho chính mình, mà còn để phục vụ người khác, làm cho ánh sáng của Chúa Kitô lan tỏa khắp mọi nơi.

Xin Chúa Kitô, Vị Vua của chúng ta, tiếp tục hướng dẫn và giúp đỡ chúng ta sống theo những giá trị của Nước Thiên Chúa, để mỗi chúng ta trở thành những người xây dựng hòa bình, tình yêu và công lý trong thế giới này. Amen.

23.11.2024

Lm. Anmai, CSsR

 

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Tài liệu Giáo lýSun, 24 Nov 2024 06:49:17 +0700
Sự bình an trong Chúahttp://gxthohoang.net:8181/suy-niem-loi-chua/item/19065-su-binh-an-trong-chuahttp://gxthohoang.net:8181/suy-niem-loi-chua/item/19065-su-binh-an-trong-chuaSự bình an trong Chúa
  Sự Bình An Trong Chúa - Bài giảng lễ an táng- bài 10

Hôm nay, trong bầu không khí trang trọng và đầy cảm xúc của buổi lễ an táng này, chúng ta cùng nhau quy tụ để tưởng nhớ và cầu nguyện cho linh hồn người đã khuất. Trong những giây phút như thế này, tâm hồn chúng ta thường trĩu nặng vì nỗi mất mát và buồn đau. Tuy nhiên, giữa những đau khổ ấy, chúng ta cũng được mời gọi để tìm kiếm và nhận ra sự bình an trong Chúa, một món quà quý giá mà Ngài ban tặng cho mỗi người chúng ta.

Trong cuộc sống đầy biến động và thử thách, mỗi người chúng ta đều tìm kiếm sự bình an. Khi Chúa Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em; Thầy ban cho anh em sự bình an của Thầy” (Ga 14:27), Ngài không chỉ hứa hẹn một cảm giác thoải mái tạm thời mà còn mang đến một sự bình an sâu sắc, một sự bình an mà thế gian không thể cung cấp. Đây là một món quà vô giá mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, và nó thể hiện rõ nét trong mỗi khía cạnh của cuộc sống.

Sự bình an mà Chúa Giêsu ban tặng không chỉ đơn thuần là sự vắng mặt của lo âu hay sợ hãi. Đó là một sự hiện diện sống động của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Khi chúng ta tin tưởng và phó thác vào Chúa, Ngài ban cho chúng ta sức mạnh để vượt qua những thử thách mà chúng ta phải đối diện. Trong những lúc khó khăn, sự bình an của Chúa như một chiếc ô bảo vệ chúng ta khỏi cơn bão của lo âu và sợ hãi.

Một trong những nỗi sợ lớn nhất của con người chính là cái chết. Chúng ta có thể cảm thấy rằng cái chết là một sự kết thúc, nhưng thực tế, nó chỉ là một cánh cửa dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu bên Chúa. Điều này được thể hiện qua sự phục sinh của Đức Kitô. Ngài đã chết và sống lại, mở ra cho chúng ta một hy vọng mới. Chúng ta tin rằng người đã khuất không phải là một phần đã mất đi, mà là một phần của cuộc sống vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã hứa với chúng ta.

Sự bình an mà Thiên Chúa ban tặng cũng là một lời mời gọi chúng ta trở về với Ngài. Khi chúng ta đối mặt với cái chết hoặc sự mất mát, chúng ta được nhắc nhở rằng cuộc đời này không phải là tất cả. Mỗi người chúng ta đều được kêu gọi để sống trong sự hiện diện của Chúa, để tìm kiếm sự bình an nơi Ngài. Qua việc cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, và sống theo Lời Chúa, chúng ta có thể cảm nhận được sự bình an đó.

Sự bình an không chỉ dành riêng cho chúng ta mà còn là một món quà mà chúng ta được kêu gọi để chia sẻ. Khi chúng ta sống trong bình an, chúng ta trở thành nguồn an ủi cho những người xung quanh. Hãy nghĩ đến những người đang đau khổ, lo âu, và cần sự hỗ trợ. Qua tình yêu thương và sự chia sẻ của chúng ta, sự bình an của Chúa có thể đến với họ.

Khi chúng ta đứng đây hôm nay, trong khung cảnh trang nghiêm của buổi lễ an táng, chúng ta không chỉ là những cá nhân tách biệt mà là một cộng đoàn, một gia đình lớn trong đức tin. Sự bình an của Chúa không chỉ dành riêng cho chúng ta mà còn mở rộng đến những người đã khuất. Chúng ta tin tưởng rằng sự cầu nguyện của chúng ta cho linh hồn người đã ra đi có thể mang lại an ủi cho họ và làm cho bình an của Chúa hiện diện nơi họ.

Trong thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma, Ngài đã nhấn mạnh rằng “chúng ta là những chi thể của nhau” (Rm 12:5). Điều này có nghĩa là trong sự liên đới của cộng đoàn, chúng ta cùng nhau chia sẻ gánh nặng, an ủi nhau, và cầu nguyện cho nhau. Cầu nguyện cho linh hồn người đã khuất là một hành động yêu thương, thể hiện sự kết nối giữa những người sống và những người đã ra đi.

Sự bình an mà Chúa ban cho chúng ta không chỉ là một cảm giác cá nhân mà còn là một món quà chung của cộng đoàn. Khi một thành viên trong gia đình hoặc cộng đoàn ra đi, nỗi buồn mất mát không chỉ dừng lại ở cá nhân mà lan tỏa đến tất cả mọi người. Chúng ta có trách nhiệm cùng nhau an ủi và hỗ trợ nhau. Hành động cầu nguyện không chỉ mang lại sự an ủi cho linh hồn người đã khuất mà còn giúp chúng ta xoa dịu nỗi đau trong lòng. Qua những lời cầu nguyện, chúng ta thể hiện rằng chúng ta vẫn còn gắn kết với nhau, bất kể sự phân cách của cái chết.

Cầu nguyện cho những linh hồn đã qua đời không chỉ là một nghĩa vụ mà còn là một dấu chỉ của tình yêu thương và lòng hiếu thảo. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta không chỉ đang xin ơn tha thứ cho họ, mà còn xin cho chính mình được sống xứng đáng với tình yêu mà Chúa đã dành cho chúng ta. Cầu nguyện là cách chúng ta duy trì sự kết nối với những người đã ra đi. Trong những giây phút khó khăn, khi mà nỗi đau dâng trào, sự cầu nguyện trở thành nguồn sức mạnh và bình an cho tất cả mọi người.

Sự bình an trong cộng đoàn tín hữu còn được củng cố bởi sự hiệp nhất trong đức tin. Chúng ta cùng nhau kỷ niệm những khoảnh khắc vui vẻ và cả những nỗi buồn, chia sẻ gánh nặng và cùng nhau cầu nguyện. Khi một người trong chúng ta đau khổ, tất cả chúng ta đều đau khổ. Điều này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không đơn độc trong hành trình đức tin. Sự bình an mà Chúa ban cho mỗi người trong cộng đoàn sẽ được nhân lên khi chúng ta cùng nhau sống và chia sẻ.

Sự bình an trong Chúa không phải là một điều tự động đến với chúng ta. Nó là một hành trình mà chúng ta cần phải tìm kiếm và vun đắp. Điều này bắt đầu từ việc chúng ta mở lòng mình ra với Chúa qua cầu nguyện, qua việc sống theo Lời Ngài, và thực hành bác ái trong cuộc sống hàng ngày.

Trong những lúc khó khăn và đau khổ, hãy tìm đến Chúa để cầu xin Ngài ban cho chúng ta sức mạnh và sự bình an. Ngài sẽ luôn hiện diện bên chúng ta, như một người bạn đồng hành, giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách.

Hãy nhớ rằng, cuộc sống này không phải là một cuộc hành trình đơn độc. Chúng ta có cộng đoàn, có gia đình, có những người bạn đồng hành trên con đường đức tin. Chúng ta cần nhau để cùng chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn, và cùng nhau tìm kiếm sự bình an của Chúa.

Cuối cùng, khi chúng ta đối diện với nỗi đau mất mát, hãy cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta sự bình an ngay cả trong những khoảnh khắc khó khăn nhất. Bình an của Chúa không phải là sự vắng mặt của nỗi đau mà là khả năng sống trọn vẹn với nỗi đau đó trong sự hiện diện của Ngài.

Cuộc sống thường mang đến những thử thách, và cái chết là một trong những thử thách lớn nhất mà chúng ta phải đối diện. Tuy nhiên, trong đau khổ, chúng ta lại có cơ hội để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngài không rời xa chúng ta trong những lúc khó khăn mà trái lại, Ngài đến gần hơn, đưa tay nâng đỡ và an ủi chúng ta.

Bình an của Chúa không phải là sự vắng mặt của nỗi đau mà là khả năng sống trọn vẹn với nỗi đau đó trong sự hiện diện của Ngài. Như Thánh Phaolô đã viết: “Chúng ta biết rằng mọi sự đều hợp tác cho điều tốt cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8:28). Điều này nhắc nhở chúng ta rằng ngay cả trong những đau khổ, Thiên Chúa vẫn có thể mang lại cho chúng ta một điều gì đó tốt đẹp.

Hãy cùng nhau dâng lời cảm tạ lên Thiên Chúa vì những ân sủng mà Ngài đã ban cho chúng ta, nhất là ân sủng của sự bình an. Chúng ta có thể cảm thấy buồn bã vì sự ra đi của người đã khuất, nhưng hãy nhớ rằng, cuộc sống của họ đã để lại những kỷ niệm, những bài học và tình yêu thương mà chúng ta sẽ mãi mãi trân trọng.

Chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì cuộc đời của người đã khuất, vì những ảnh hưởng tích cực mà họ đã mang lại cho gia đình, bạn bè và cộng đồng. Sự hiện diện của họ trong cuộc đời chúng ta là một món quà quý giá mà chúng ta cần ghi nhớ và tôn vinh.

Trong giây phút thiêng liêng này, chúng ta cùng nhau cầu nguyện, để sự bình an của Chúa đến với linh hồn người đã khuất. Hãy cầu xin Chúa tha thứ và đón nhận linh hồn của họ vào vương quốc vinh quang của Ngài.

Đồng thời, chúng ta cũng cầu nguyện cho chính mình và cho mọi người còn sống, để sự bình an của Chúa có thể xoa dịu nỗi đau trong lòng chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh để tiếp tục hành trình đức tin. Chúng ta cần nhau trong những thời khắc này, để cùng nhau hỗ trợ và an ủi lẫn nhau.

Cuối cùng, hãy để nỗi đau mất mát này trở thành động lực để chúng ta sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Hãy sống mỗi ngày trong sự hiện diện của Chúa, để sự bình an của Ngài có thể lan tỏa đến mọi người xung quanh.

Chúng ta được mời gọi để chia sẻ tình yêu, sự bình an và hy vọng với những người khác. Khi chúng ta sống theo cách này, chúng ta không chỉ vinh danh người đã khuất mà còn xây dựng một cộng đồng yêu thương và hỗ trợ nhau.

Kính thưa cộng đoàn, sự bình an trong Chúa là một món quà quý giá mà chúng ta cần phải trân trọng và tìm kiếm. Trong giờ phút này, khi chúng ta tưởng nhớ đến người đã khuất, hãy để sự bình an của Chúa tràn ngập trong trái tim mỗi người chúng ta, và giúp chúng ta tìm thấy ánh sáng vĩnh cửu trong đức tin.

Nguyện xin Chúa ban bình an cho linh hồn người đã ra đi và cho tất cả chúng ta, để chúng ta luôn sống trong sự yêu thương và hòa bình của Ngài.

 

Lm. Anmai, CSsR

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Suy niệm Lời ChúaSat, 23 Nov 2024 15:04:09 +0700
Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần 34 Mùa Thường Niênhttp://gxthohoang.net:8181/van-hoa-nghe-thuat/van/item/19064-sn-lc-chua-nhat-tuan-34-tnhttp://gxthohoang.net:8181/van-hoa-nghe-thuat/van/item/19064-sn-lc-chua-nhat-tuan-34-tnSuy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần 34 Mùa Thường Niên
Suy Niệm Lời Chúa Chúa Nhật Tuần 34 Mùa Thường Niên

24/11/2024

Chúa Nhật Tuần 34 Tn – B
Chúa Ki-Tô, Vua Vũ Trụ
Ga 18,33b-37

Là Công Dân Nước Trời

Đức Giê-su nói: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật.” (Ga 18,37)

Suy niệm: “Trước đây chúng ta tuân theo lệnh vua và quỳ mọp trước các hoàng đế. Thế nhưng ngày hôm nay chúng ta chỉ quỳ trước sự thật, chạy theo vẻ đẹp và vâng theo tình yêu” (K Gibran). Đức Giê-su tuyên bố với Phi-la-tô rằng Ngài là vua của một Nước. Tuy nhiên, Nước hay Vương Quốc ấy không thuộc trần gian này như những quốc gia thông thường, nhưng là một Nước đặc biệt độc nhất vô nhị. Đặc biệt vì đó là Nước của Sự Thật. Trong Nước Sự Thật của Ngài, người ta sẽ không còn dùng những thủ đoạn chính trị giả dối, nhưng dựa trên nền tảng là sự thật. Các công dân của Nước này can đảm sống cho sự thật, chết cho sự thật. Đó cũng là Nước của Tình Yêu vì địa vị cao trọng của mỗi công dân dựa trên yêu thương: yêu thương là luật lệ chi phối mọi sinh hoạt, càng yêu nhiều, càng cao trọng.

Mời Bạn: Chọn Đức Ki-tô làm vua là từ bỏ lối sống của thế gian, đó là tôn sùng tiền bạc, bạo lực, hận thù, tham lam... nhưng chọn sống theo những giá trị Tin Mừng của Vương Quốc Sự Thật và Tình Yêu, đó là khó nghèo, hiền lành, khiêm nhu, bao dung, tha thứ…. Hôm nay Vua Giê-su cũng nhìn bạn và hỏi: “Con có muốn Ta làm Vua của con không?” Bạn sẽ thưa “vâng” với Chúa chứ?

Sống Lời Chúa: Là công dân của Vương Quốc Sự Thật và Tình Yêu, tôi sẽ nỗ lực đem những giá trị của Tin Mừng thấm nhập vào môi trường mình đang sống.

Cầu nguyện: Lạy Vua Giê-su, chúng con hạnh phúc được làm công dân của Nước Chúa. Xin cho chúng con cố gắng làm chứng cho sự thật này: Thiên Chúa là Cha yêu thương nhân loại. Amen.

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Suy Niệm Lời Chúa Hằng NgàySat, 23 Nov 2024 09:49:50 +0700
Đức Vua có trái tim khiêm nhường, nghèo khóhttp://gxthohoang.net:8181/suy-niem-loi-chua/item/19063-duc-vu-co-trai-tim-khiem-nhuong-ngheo-khohttp://gxthohoang.net:8181/suy-niem-loi-chua/item/19063-duc-vu-co-trai-tim-khiem-nhuong-ngheo-khoĐức Vua có trái tim khiêm nhường, nghèo khó
  ĐỨC VUA CÓ TRÁI TIM KHIÊM NHƯỜNG, NGHÈO KHÓ | Suy Niệm Tin Mừng Lễ Chúa Kitô Vua, Năm B


TMĐP- Mừng lễ Chúa Kitô Vua là cơ hội hồng phúc cho chúng ta được nếm sự ngọt ngào của Đức Giêsu vô cùng nhân hậu.

Vua chúa, hoàng đế đều là những ngôi vị ngất ngưởng cao, hào quang rực rỡ, chói chan vinh dự, phủ phê dũng lực uy quyền, và người ta khó có thể quan niệm một ông vua khiêm nhu, một hoàng đế nghèo khó, ở giữa những người bị khinh mạn, bạc đãi, bỏ rơi, và phường tội lỗi.

Thế mà Vua Giêsu chúng ta tôn vương hôm nay lại tự nhận mình “hiền lành và khiêm nhường tận đáy lòng”. Đức Vua ấy còn tha thiết mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29). Thật khác với vua chúa thế gian, nên có tìm đỏ mắt cũng khó kiếm được một ông vua hiền lành, một nữ hoàng khiêm nhu gần gũi những thân phận rách bươm vì túng thiếu, bệnh tật, bị bạc đi, bỏ rơi ngày đêm nhan nhản khắp đường đời.

Vua Giêsu chúng ta tôn vương không chỉ là vị Vua hiền lành, khiêm nhường, gần gũi mọi người, nhất là những người không số má, không danh phận, không chỗ đứng, không hiện tại, tương lai, mà còn là vị Vua nghèo, nghèo đến độ “con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58). Thật khác với hàng quân vương không thiếu bất kỳ một thứ gì qúy giá có trong đời, vì có mọi đặc lợi, đặc quyền, trong khi Vua Giêsu nghèo khó của chúng ta không chỉ sinh ra bởi cha mẹ nghèo, lớn lên trong gia đình nghèo, sống nghèo, truyền giáo trong điều kiện eo hẹp, thiếu thốn, mà còn chết trần truồng, không mộ phần có sẵn, phải chôn ké, nằm nhờ trong mộ phần của ông Giuse người làng Arimathê tốt bụng (x. Lc 23,50-53).

Vua Giêsu chúng ta tôn vương trong suốt đời làm người, làm con Chúa còn là vị Vua của đám dân bé nhỏ, hèn mọn, ngu muội, dốt nát, ngây ngô, khờ khạo nên suốt đời bị người giàu, kẻ mạnh ăn hiếp, bắt nạt, lợi dụng, mà chẳng dám lên tiếng phản biện, kết đoàn đấu tranh đòi quyền sống.

Và Vua Giêsu ấy đã không cai trị bằng uy quyền, không trị dân bằng bạo lực, không quản lý dân bằng gieo rắc sợ hãi, nhưng bằng yêu thương vô cùng và “đến cùng” (Ga 13,1), bằng “phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân” (Mt 20,28).

Mừng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, người Kitô hữu chúng ta dù ở bất cứ phẩm trật nào trong Hội Thánh, dù nắm giữ bất cứ chức vụ, công tác nào trong cộng đoàn Dân Chúa đều được mời gọi nhìn lại cung cách thi hành sứ vụ của mình, xem lại thái độ của mình đối với mọi người, nhất là với những người không quyền, không tiền, không nhà, không nghề nghiệp, không tương lai, và đau khổ hơn nữa là những người không được ai yêu thương, thông cảm, nâng đỡ, chỉ bảo …

Mừng lễ Chúa Kitô Vua cũng là dịp sám hối ăn năn vì đã không “yêu vô cùng và đến cùng ” những người được Thiên Chúa giao phó trông nom, chăm sóc, khi Ngài trao trách nhiệm chủ chăn, và ban ơn đoàn sủng để chăn dắt, bởi ranh giới giữa chủ chăn và người chăn thuê, kẻ trộm, quân cướp trá hình, trà trộn giữa đoàn chiên rất mong manh, mơ hồ, không luôn dễ phân định vì mãnh lực của tham vọng quyền bính thống trị, ích kỷ, sở hữu, hưởng thụ …

Và mừng lễ Chúa Kitô Vua luôn mãi là cơ hội hồng phúc cho chúng ta được nếm sự ngọt ngào của Đức Giêsu vô cùng nhân hậu, vị Vua đã đến với mọi người, nhất là những người đau ốm, tật nguyền, nghèo đói, bé nhỏ và tội lỗi (x. Lc 5,12-32) trong cung cách hiền lành, khiêm nhường khi ngồi trên lưng lừa con tiến vào thành thánh Giêrusalem như lời sấm trong Cựu Ước: “Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Mt 21,5) để mãi là thần dân hạnh phúc trong trái tim hay chạnh lòng và vương quốc tình yêu không biên cương, ranh giới của Đức Vua giàu lòng thương xót đến độ “cây lau bị giập, người không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét cũng chẳng nỡ tắt đi” (Is 42,3).

Như người gian phi chịu đóng đinh với Đức Giêsu trên Canvê năm nào, chúng ta cùng cầu xin: “Lạy Đức Giêsu, Vua Vũ Trụ, Vua giàu lòng thương xót, xin nhớ đến chúng con trong Nước Ngài” (x. Lc 23,42).

Jorathe Nắng Tím

]]>
gxthohoang@gmail.com (Ban Biên Tập)Suy niệm Lời ChúaSat, 23 Nov 2024 07:59:46 +0700