Vì sao Đức tin có tác động tích cực cho xã hội
Posted by Ban Biên Tập
Những sự kiện ở Ai Cập có thể lại làm tăng mối quan tâm về vai trò của tôn giáo trong xã hội. Trong khi chủ nghĩa cực đoan hay bạo lực nhân danh tôn giáo chắc chắn là tệ hại, tôn giáo cách chung có một ảnh hưởng tích cực.
Điều này được thể hiện rõ trong một cuốn sách được xuất bản vào cuối năm ngoái của Rodney Stark, một cựu giáo sư xã hội học và là tác giả của nhiều cuốn sách nói về tác động của Kitô giáo đối với xã hội.
Trong cuốn sách của ông, tựa đề “Phúc Lành của Mỹ quốc: Tôn giáo ích lợi cho mọi người, gồm cả người vô thần, như thế nào”, Stark nhấn mạnh rằng tất cả những tuyên bố ông đưa ra về tác động tích cực của tôn giáo được hỗ trợ bởi các nghiên cứu đáng tin cậy.
Stark cho biết, có một khối lượng bằng chứng thực tế cho thấy hành vi xã hội bị ảnh hưởng rất nhiều bởi tôn giáo. Ông đưa ra con số 247 nghiên cứu được công bố giữa năm 1944 và 2010 đã cho thấy tác động tích cực của tôn giáo vào việc giảm bớt tội ác,sự lệch lạc và sự phạm pháp.
Một khảo sát phát hiện rằng những người trẻ không bao giờ đi nhà thờ thì dường như bị cảnh sát bắt nhiều hơn gấp 4 lần so với những người có đi nhà thờ. Tác động tích cực của tôn giáo dành cho cho cả người da trắng và người Mỹ gốc Phi và trên nhiều mức độ khác nhau về giáo dục và thu nhập.
Sau khi xem xét một loạt các nghiên cứu Stark đã thấy được hiệu quả tích cực của tỷ lệ thành viên giáo hội có liên quan đến việc dính líu vào việc trộm cắp, cướp bóc, hành hung và giết người. Ông lưu ý điều này đặc biệt đúng đối với thanh thiếu niên,.
Thật vậy, việc sử dụng ma túy, rượu bia và đều đặn đến trường là những hành vi xã hội khác được ảnh hưởng tích cực bởi mức độ tham gia tôn giáo.
Cuộc sống gia đình
Một trong các chương của cuốn sách xem xét vấn đề về khả năng sinh sản và cuộc sống gia đình. Stark đã so sánh khả năng sinh sản ở hầu hết các nước châu Âu với mức độ cao hơn đáng kể tại Hoa Kỳ. Ông lập luận, tôn giáo là những gì làm nên sự khác biệt.
“Khả năng sinh sản của những người châu Âu đi nhà thờ là khá cao hơn mức thay thế, nhưng người châu Âu đi nhà thờ là quá ít để bù vào sự không sinh con của người ít tham gia tôn giáo và người không tôn giáo”, ông nhận xét.
Những khảo sát cho thấy rằng sự biểu hiện mong muốn có gia đình đông con hơn có liên quan mạnh mẽ đến mức độ đi lễ nhà thờ, Stark giải thích.
Một nghiên cứu phát hiện ra rằng trong số những người thường xuyên đi nhà thờ, phụ nữ châu Âu có mức sinh cao hơn so với phụ nữ Mỹ. Ông tiếp tục, vấn đề là gần 40% phụ nữ Mỹ đi nhà thờ ít nhất hàng tuần trong khi ở châu Âu tỷ lệ này thấp hơn nhiều.
Stark kết luận, “Tất cả các sự kiện minh chứng cho kết luận rằng các cặp vợ chồng càng mộ đạo thì cuộc sống gia đình của họ càng ổn định, thỏa mãn, và mang lại lợi ích nhiều hơn “,
Ông cũng giải thích rằng những người có tôn giáo ở Mỹ thì dường như dể kết hôn và duy trì đời sống hôn nhân hơn những người không tôn giáo. Trong thực tế, những người đi nhà thờ hàng tuần thì số ly hôn chỉ bằng một nửa, so với những người không bao giờ tham dự. Điều này cũng đúng ở các quốc gia châu Âu với việc đi nhà thờ có một mối quan hệ tỷ lệ nghịch với việc ly dị.
Nói chung các cặp vợ chồng hoạt động tôn giáo có xu hướng rõ rệt về chế độ một vợ một chồng hơn, và ít sống bừa bãi trước hôn nhân hơn.
Liên quan đến giáo dục Stark quan sát thấy rằng những người vô thần thường cho rằng những người có đạo là không có giáo dục. Ông gọi việc nầy là sự “tưởng tượng”, và nói rằng người những Mỹ không bao giờ đi nhà thờ thì ít có khả năng hoàn tất bậc trung học, cách đáng kể.
Giáo dục
Ông nói thêm, một sinh viên càng sùng đạo, thì việc học hành ở trường càng tốt và điểm thành tích đạt được càng cao hơn.
Trong khi một số người đã lập luận rằng mối tương quan giữa tôn giáo và sự thành công học vấn là do mức thu nhập cao hơn, điều này bị bác bỏ, Stark lập luận, bởi các kết quả cho thấy rằng tác động tôn giáo trên thành tích ở trường thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa đối với những sinh viên Mỹ gốc Phi và gốc Tây Ban Nha.
Ông kết luận, cha mẹ có đạo, “là cha mẹ tốt hơn, nuôi dạy con cái có tư cách và có giáo dục hơn.”
Chuyển sang chủ đề khác, Stark giải thích rằng trái với các nhà tư tưởng hiện đại, chẳng hạn như Sigmund Freud, người coi tôn giáo như là một nguyên nhân của bệnh tâm thần, các tín hữu có sức khỏe tinh thần và thể chất tốt hơn.
Một khía cạnh khác mà ông tập trung vào là tỷ lệ tự tử, nó thay đổi đáng kể từ nơi nầy đến nơi khác. Ông nói, nhiều nghiên cứu đã cho thấy rằng trong một vùng địa dư cụ thể, hễ số lượng các thành viên có đạo càng cao,thì tỷ lệ tự tử càng thấp. Người có đạo cũng ít bị trầm cảm và rối loạn thần kinh hơn.
Một chương theo sau đã xem xét sự tương tác xã hội của các tín đồ tôn giáo. Stark đã chỉ ra rằng những người càng mộ đạo càng có xu hướng rộng lượng hơn với người khác và cũng tham gia nhiều hơn vào các hoạt động tình nguyện.
Ông nhận xét, tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới đều nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng quảng đại, và các cuộc điều tra cho thấy rằng trên khắp thế giới những người có hoạt động tôn giáo thường rộng rãi hơn đối với người khác.
Nhìn chung, cuốn sách của Stark cung cấp một lời nhắc nhở thú vị rằng tôn giáo không phải là một cái gì đó độc hại, hạn chế đối với cuộc sống của chúng ta.
Cái nhìn của Stark thì có gì đó không hoàn thiện trong việc ông có xu hướng nhân một kết luận hời hợt về bằng chứng của lợi ích tôn giáo để ghi điểm về tính ưu việt của Hoa Kỳ trên châu Âu, trong khi che đậy rất nhiều nguyên nhân khác nhau có thể có giữa các châu lục. Tuy nhiên, nó cũng đáng để đọc.
XT (theo ZENIT)
(Nguồn: Xuân Bích Việt Nam)