1/7 – Chân phước Giuniperô Serra, Linh mục (1713-1784)
Năm 1776, khi cuộc Cách mạng Hoa Kỳ bắt đầu ở miền Đông, một vùng khác của Hoa Kỳ sau đó cũng được sinh ra tại California. Năm đó, một tu sĩ Dòng Phanxicô thành lập Hội Truyền giáo Thánh Gioan Capistranô (Mission San Juan Capistrano). Thánh Gioan Capistranô là Hội Truyền giáo thứ 7 trong 9 Hội Truyền giáo được thành lập theo hướng dẫn của người Tây Ban Nha bất khuất (indomitable Spaniard).
Sinh tại đảo Mallorca, thuộc Tây Ban Nha, Serra vào Dòng Phanxicô, lấy tên theo người bạn của Thánh Phanxicô là Juniperô. Tới lúc 35 tuổi, ngài dành nhiều thời gian học tập – đầu tiên học thần học rồi làm giáo sư. Ngài cũng nổi tiếng về giảng thuyết. Bất ngờ ngài bỏ hết mọi sự khi nghe nói về việc truyền giáo của thánh Phanxicô Sôlanô ở Nam Mỹ. Ước mong của ngài là hoán cải dân bản xứ ở Tân Thế Giới.
Đến Vera Cruz, thuộc Mexico, ngài và một người bạn đi bộ 250 dặm tới thành phố Mexico. Trên đường đi, chân trái ngài bị nhiễm trung do bị côn trùng cắn và đôi khi đe dọa tính mạng trong suốt phần đời còn lại của ngài. Suốt 18 năm, ngài làm việc ở miền Trung Mexico và ở bán đảo Baja, ngài trở thành trưởng nhóm truyền giáo ở đó.
Hứa ở lại với dân địa phương, ngài và một tu sĩ nữa bắt đầu làm tuần cửu nhật chuẩn bị lễ Đức Thánh Giuse 19-3. Sau đó có thêm các Hội Truyền giáo khác là Hội Truyền giáo Monterey/Carmêlô (1770); Hội Truyền giáo Thánh Antôniô và Thánh Gabriel (1771); Hội Truyền giáo Thánh Luís Obispo (1772); Hội Truyền giáo Thánh Phanxicô và Thánh Gioan Capistranô (1776); Hội Truyền giáo Thánh Clara (1777); Hội Truyền giáo Thánh Bônaventura (1782). Sau khi ngài qua đời, có thêm 12 nhóm truyền giáo khác được thành lập.
Đời sống truyền giáo của ngài là cuộc chiến với cái lạnh và cái đói, với quân đội không thông cảm và với cả cái chết rình rập vì dân bản xứ. Nhưng hàng đêm ngài vẫn hăng say cầu nguyện, thường là từ nửa đêm tới sáng. Ngài rửa tội cho hơn 6.000 người và thêm sức cho 5.000. Hầu như ngài đi vòng quanh trái đất. Ngài đem lại cho người Mỹ bản xứ không chỉ đức tin Công giáo mà còn tiêu chuẩn sống nên được họ quý mến. Sau khi qua đời, ngài được an táng tại Dòng Truyền Giáo San Carlo Borromeo, Carmel, và được phong chân phước năm 1988.
2/7 – Thánh Oliver Plunkett, Giám mục Tử đạo (1629-1681)
Thánh Oliver Plunkett tử đạo vì bảo vệ đức tin ở Ai-len trong thời bách hại dữ dội.
Ngài sinh tại County Meath năm 1629, học ở Rôma và thụ phong linh mục năm 1654. Sau vài năm dạy học và phục vụ người nghèo ở Rôma, ngài được bổ nhiệm làm tổng giám mục giáo phận Armagh ở Ai-len. Năm 1673, một làn sống chống Công giáo nổi lên, buộc ngài phải làm mục vụ bí mật và sống lén lút. Trong khi đó, nhiều linh mục bị đi đày, các trường học bị đóng cửa, thánh lễ phải cử hành bí mật, các dòng tu và chủng viện bị hạn chế.
Là TGM, ngài phải chịu trách nhiệm về mọi cuộc nổi loạn hoặc hoạt động chính trị trong các giáo dân. Ngài bị bắt tù ở Dublin Castle năm 1679, nhưng bị xử tại London. Sau 15 phút ngị án, thẩm phán kết án ngài tội xúi giục nổi loạn. Ngài bị treo cổ, bị kéo lê và bị phân thây làm tư vào tháng 7-1681. Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI phong thánh cho ngài năm 1975.
3/7 – Thánh Tôma, Tông đồ
Tội nghiệp thánh Tôma! Ngài đã từng bị gắn mác là “Tôma đa nghi”. Nhưng nếu ngài không nghi ngờ thì ngài cũng tin. Ngài nói một câu minh nhiên nhất trong Tân ước: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!” (x. Ga 20:24-28), đó là câu tuyên xưng đức tin đã cho các tín hữu một lời cầu nguyện mãi mãi cho đến tận thế. Ngài cũng gợi ra một lời khen của Chúa Giêsu dành cho các tín hữu: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).
Thánh Tôma có tiếng là can đảm. Có thể điều ngài nói là mạnh mẽ – vì ngài chạy, cũng như những người khác, khi bị thử thách – nhưng ngài có thể không thành thật khi ngài bày tỏ sự sẵn sàng chết với Chúa Giêsu. Cơ hội là khi Chúa Giêsu đề nghị đi tới Bêtania sau khi Ladarô đã chết. Vì Bêtania gần Giêrusalem, nghĩa là đi bộ ngay giữa lòng quân thù và hầu như là chết chắc! Nhận ra điều này, thánh Tôma đã nói với các tông đồ: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!” (Ga 11:16b).
4/7 – Thánh Elizabeth Bồ Đào Nha (1271-1336)
Elizabeth thường được mô tả trong trang phục hoàng gia với con chim bồ câu hoặc cành lá ôliu. Khi bà sinh năm 1271, cha bà là Pedro III, vua tương lai của Aragon, hòa giải với ông nội bà là James, nhà vua đang tại vị. Vì ảnh hưởng sức khỏe trong những năm đầu đời, bà biết sống có kỷ luật cần thiết cho tâm linh. Lúc 12 tuổi, bà được hứa hôn với Denis, vua của Bồ Đào Nha. Nhưng bà tự phát triển cách sống trong tình yêu Thiên Chúa, không chỉ bằng lòng yêu thương, kể cả qua thánh lễ hàng ngày, mà còn qua việc thực hành bác ái, nhờ đó bà có thể thân thiện và giúp đỡ khách hành hương, người lạ, bệnh nhân, và người nghèo. Bà tận tụy với chồng, nhưng chồng bà không chung thủy và tạo ảnh hưởng xấu tới vương quốc.
Bà tìm sự bình an cho chồng nơi Thiên Chúa. Cuối cùng bà được ơn Chúa là chồng bà bỏ đàng tội lỗi. Bà cố gắng kiến tạo hòa bình giữa Ferdinand, vua của Aragon, và người anh em của vua Ferdinand là James, vì James muốn tiếm ngôi. Sau khi chồng mất, bà vào dòng Phanxicô thánh Clara.
5/7 – Thánh Antôn Zaccaria, Linh mục (1502-1539)
Vào lúc Martin Luther công kích các sự lạm dụng trong Giáo hội, một cuộc cải cách Giáo hội đã nảy sinh. Một trong số người chống cải cách là Antôn Zaccaria. Mẹ ngài góa bụa lúc mới 18 tuổi và dành hết thời gian để giáo dục tâm linh cho con trai. Lúc 22 tuổi, ngài nhận bằng tiến sĩ y khoa, ngài hoạt động giúp dân nghèo bản xứ Cremona, và rồi bị thu hút vào hoạt động tông đồ. Ngài thụ phong linh mục lúc 26 tuổi. Ngài được sai đi Milan vài năm, và lập 3 dòng, một cho nam, một cho nữ, và một cho giáo dân. Ba dòng này họp định kỳ và khuyến khích nhau hoạtc động tông đồ bằng nhiều cách. Mục đích của dòng là cải cách xã hội suy đồi thời đó, bắt đầu từ giáo sĩ và tu sĩ.
Được linh hứng nhờ thánh Phaolô (tên dòng là Barnabites), ngài giảng đạo bằng sự nhiệt thành cả trong nhà thờ và ngoài đường phố. Ngài khuyến khích canh tân và hợp tác làm việc tông đồ, năng rước lễ, lòng sùng kính suốt 24 giờ và giật chuông nhà thờ lúc 3 giờ chiều vào các ngày thứ Sáu.
Sự thánh thiện của ngài đã lay động nhiều người canh tân đời sống, nhưng cũng có nhiều người chống đối ngài. Ngài bị bệnh nặng và được đưa về nhà thăm hiền mẫu. Ngài qua đời tại Cremona lúc 36 tuổi.
6/7 – Thánh Maria Goretti, Đồng trinh Tử đạo (1890-1902)
Có đến 250.000 người tham dự lễ phong thánh cho “cô bé” Maria Goretti.
Maria Goretti là con một tá điền người Ý nghèo nàn, không được đi học nên không biết đọc biết viết. Maria Goretti được rước lễ lần đầu không được bao lâu thì qua đời lúc 12 tuổi.
Vào một buổi chiều tháng Bảy nóng bức, Maria Goretti ngồi trên đầu cầu thang trong nhà để sửa áo, chưa đầy 12 tuổi như cơ thể đã nảy nở. Một chiếc xe bò dừng lại bên ngoài, một người hàng xóm là Alessandro Serenelli, 18 tuổi, chạy lên cầu thang. Hắn chộp lấy Maria Goretti và đưa vào giường. Maria Goretti chống cự dữ dội và kêu cứu, hắn định tự sát chứ không chịu bị bắt. Maria Goretti nói: “Không, Chúa không muốn vậy. Đó là tội. Anh sẽ sa hỏa ngục vì tự tử”. Alessandro bắt đầu chĩa dao và đâm Maria Goretti.
Maria Goretti được đưa tới bệnh viện. Giây phút cuối, Maria Goretti lo cho mẹ sẽ có ngủ được hay không, và sẵn sàng tha thứ cho kẻ giết mình. Maria Goretti trút hơi thở cuối cùng sau 24 giờ bị đâm.
Kẻ sát nhân bị kết án 30 năm tù. Một thời gian lâu sau mà hắn vẫn không hối hận. Có một đêm hắn chiêm bao thấy Maria Goretti hái những bông hoa trao cho hắn. Từ đó hắn thay đổi cuộc sống. Sau 27 năm tù, Alessandro được tha, hành động đầu tiên là anh ta đến xin lỗi mẹ của Maria Goretti.
Lòng sùng kính vị thánh trẻ tử đạo này lan nhanh, các phép lạ xuất hiện, Maria Goretti được phong thánh chỉ sau gần 50 năm. Năm 1947, tại lễ phong chân phước cho Maria Goretti, người mẹ (lúc đó 82 tuổi), 2 em gái và 1 em trai đã xuất hiện cùng với ĐGH Piô XII trên lan can Đền thờ thánh Phêrô. Ba năm sau, tại lễ phong thánh cho Maria Goretti, Alessandro Serenelli (lúc đó đã 66 tuổi) quỳ giữa hàng trăm người và bật khóc.
7/7 – Chân phước Emmanuel Ruiz, Linh mục, và các bạn tử đạo (1804-1860)
Không biết nhiều về cuộc đời hồi trẻ của chân phước Emmanuel Ruiz, nhưng chúng ta biết chi tiết về cái chết anh dũng của Ruiz vì bảo vệ đức tin.
CP Emmanuel Ruiz sinh trong một gia đình khiêm nhường ở Santander, Tây Ban Nha. Ngài tu Dòng Phanxicô, thụ phong linh mục và đi truyền giáo ở Damascus. Đó là lúc Công giáo bị chống đối làm rung chuyển Syria và hàng ngàn người bị sát hại. Trong số đó có CP Emmanuel Ruiz, bề trên Dòng Phanxicô, 7 tu sĩ và 3 giáo dân. Khi đám đông đến lục soát, họ cương quyết bảo vệ đức tin và không chịu theo Hồi giáo. Họ bị hành hạ dã man cho đến chết. CP Emmanuel Ruiz cùng các tu sĩ và các giáo dân được ĐGH Piô XI tôn phong chân phước năm 1926.
8/7 – Thánh Gregoriô Grassi, Giám mục, và các bạn tử đạo (qua đời năm 1900)
Các nhà truyền giáo thường bị bắt phải chống lại quốc gia mình. Khi chính phủ Anh, Đức, Nga và Pháp phải nhượng bộ ở người Trung quốc (TQ) năm 1898, tinh thần bài ngoại gia tăng cao độ ở người TQ.
Gregory Grassi sinh tại Ý năm 1833, thụ phong linh mục năm 1856 và được sai tới TQ năm 1861. Sau đó ngài được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Bắc Sơn Tây (North Shanxi). Với 14 nhà truyền giáo khác người Âu châu và 14 tu sĩ người TQ, ngài chịu tử đạo trong thời Boxer Uprising (Nghĩa Hòa Đoàn) ở Trung quốc (1900-1901).
26 vị tử đạo bị bắt theo lệnh của Yu Hsien, thống đốc tỉnh Sơn Tây. Họ bị đánh chết ngày 9-7-1900. Trong đó có 5 tu sĩ Dòng Phanxicô và 7 tu sĩ Dòng Phanxicô Truyền giáo Đức Mẹ, 7 chủng sinh người TQ, 4 giáo dân người TQ Dòng Ba Phanxicô, 3 vị khác là giáo dân bị giết ở Sơn Tây chỉ vì làm việc cho Dòng Phanxicô. Có 3 tu sĩ Dòng Phanxicô người Ý bị giết cùng tuần đó ở tỉnh Hồ Nam (Hunan). Đó là những vị tử đạo đầu tiên của Dòng, và được tôn phong chân phước năm 1946.
9/7 – Thánh Augustinô Zhao Rong và các bạn (thế kỷ 17-20)
Kitô giáo đến Trung quốc (TQ) qua lối Syria vào những năm 600. Tùy thuộc mối quan hệ của TQ với thế giới
bên ngoài, Kitô giáo qua các thế kỷ đã được tự do hoặc phải hoạt động bí mật.
120 vị tử đạo này bị giết từ năm 1648 tới 1930. Trong số đó có 87 vị sinh tại TQ, là trẻ em, người lớn, giáo lý viên hoặc dân lao động, độ tuổi từ 9 tới 72. Trong đó có 4 linh mục triều người TQ.
33 vị tử đạo người ngoại quốc, đa số là linh mục và nữ tu, thuộc Dòng Đa Minh (OP, Order of Preachers), Hội Thừa sai Balê (Paris Foreign Mission Society), Dòng Phanxicô (Friars Minor), Dòng Tên (Jesuits), Dòng Sa-le-diêng (Salesians) và Dòng Phanxicô Truyền giáo Đức Mẹ (Franciscan Missionaries of Mary).
Thánh Augustinô Zhao Rong là một binh sĩ người TQ đi theo ĐGM Gioan Gabriel Taurin Dufresse (Hội Thừa sai Balê) tới nơi tử hình ở Bắc Kinh (Beijing). Thánh Augustinô được rửa tội và không lâu sau được thụ phong linh mục, rồi chịu tử đạo năm 1815. Được phong chân phước nhiều đợt, nhưng cả 120 vị tử đạo này được phong thánh tại Rôma ngày 1-10-2000.
10/7 – Thánh Veronica Giuliani (1660-1727)
Veronica muốn nên giống Chúa Kitô bị đóng đinh và đã được Chúa cho chịu Dấu Thánh (stigmata).
Thánh Veronica sinh tại Mercatelli. Người ta nói rằng khi mẹ bà là Benedetta hấp hối đã gọi 5 cô con gái tới bên giường và trao cho mỗi người con một Dấu Thánh của Chúa Giêsu. Veronica được trao Vết Thương của Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Lúc 17 tuổi, Veronica vào Dòng Thánh Clara Khó nghèo, do các tu sĩ Dòng Phanxicô hướng dẫn. Người cha muốn con gái mình kết hôn, nhưng Veronica thuyết phục để được đi tu. Trong những năm đầu ở tu viện, bà làm việc trong nhà bếp, nhà bệnh nhân, phòng thánh và giữ cổng. Lúc 34 tuổi, bà được bầu làm giáo tập (novice mistress). Lúc 37 tuổi, bà được nhận Dấu Thánh.
Tòa Thánh muốn kiểm tra tính chính xác nên mở cuộc điều tra. Bà phải tạm thời nghỉ làm giáo tập và không được dự Thánh lễ hàng ngày, trừ Chúa nhật và lễ trọng. Sau một thời gian, bà được phục chức giáo tập và giữ chức vụ này suốt 22 năm.
Lúc 56 tuổi, bà được bầu làm Mẹ bề trên, thời gian là 11 năm khi bà qua đời. Bà rất sùng kính Thánh Thể và Thánh Tâm Chúa. Bà được phong thánh năm 1839.
11/7 – Thánh Bênêđictô, Viện phụ (480?-543)
Không có tiểu sử về một người đã đã ảnh hưởng nhiều đến đới sống đan tu ở Tây phương như thánh Bênêđictô (phiên âm theo Việt ngữ là Biển Đức, đúng nghĩa chữ “benedictus” là ân phúc). Ngài được nhận ra trong cuốn “Những Cuộc Đối Thoại” (Dialogues) của thánh Grêgôriô, nhưng có những bản phác họa cho thấy những điều kỳ lạ trong cuộc đời ngài.
Thánh Bênêđictô sinh tưởng trong một gia đình gia giáo ở Trung Ý, học tập ở Rôma. Ngay hồi còn trẻ ngài đã bị thu hút vào đời đan tu. Mới đầu ngài sống ẩn tu, xa lánh thế giới – quân đôi ngoại giáo hoành hành, Giáo hội bị phân tán vì ly giáo, con người khổ sở vì chiến tranh, luân lý suy đồi.
Ngài sớm nhận ra mình không thể sống ẩn dật trong một thành phố nhỏ, thế rồi ngài thu mình vào một hang động cao trên núi trong 3 năm. Một số tu sĩ chọn ngài làm lãnh đạo một thời gian, nhưng thấy sự nghiêm khắc của ngài không hợp với họ. Ngài có ý định thu nhập các tu sĩ ở các dòng thành một “Đại Tu viện” (Grand Monastery) để họ có lợi về tình đoàn kết, tình huynh đệ, và phụng sự Chúa mãi mãi trong một ngôi nhà. Cuối cùng ngài xây dựng một nhà mà sẽ nổi tiếng nhất thế giới là Tu viện Monte Cassino, nơi có 3 thung lũng hẹp chạy về phía núi.
Tu luật dần dần phát triển quy định đời sống cầu nguyện bằng phụng vụ, học tập, lao động chân tay và sống đời cộng đoàn dưới quyền một vị cha chung là Viện phụ. Đời khổ tu của Dòng Biển Đức có tiếng về sự tiết độ, đức bác ái của dòng luôn tỏ ra quan tâm những người xung quanh. Thời Trung cổ, đời sống tu trì ở Tây phương đều dần dần theo tu luật Biển Đức. Ngày nay, gia đình Biển Đức có 2 chi nhánh: Biển Đức và Xitô (Cistercians).
12/7 – Các thánh Gioan Jones và Gioan Wall, Tử đạo (qua đời khoảng 1530-1598; 1620-1679)
Hai tu sĩ này tử đạo ở Anh hồi thế kỷ XVI và XVII vì không chịu từ bỏ đức tin.
Thánh Gioan Jones là người xứ Wales (Anh), là linh mục triều và bị tù 2 lần vì cử hành các bí tích trước khi rời khỏi Anh quốc năm 1590. Ngài vào Dòng Phanxicô lúc 60 tuổi và trở về Anh 3 năm sau, khi nữ hoàng Elizabeth I lên ngôi. Ngài chăm sóc người Công giáo ở vùng quê nước Anh đến khi vô tù năm 1596. Ngài bị treo cổ, kéo lê và phân thây làm tư ngày 12-7-1598.
Thánh Gioan Wall cũng sinh trưởng ở Anh nhưng học ở ĐH Anh quốc Douai tại Bỉ. Ngài thụ phong linh mục ở Rôma năm 1648, gia nhập Dòng Phanxicô ở Douai vài năm sau. Năm 1656, ngài trở lại làm việc bí mật tại Anh quốc.
Năm 1678, Titus Oates bắt nhiều người Anh lao động cực khổ tại đất nước này. Từ đó, người Công giáo không được tham gia vào Quốc hội, mãi đến năm 1829 luật này mới được bãi bỏ. Thánh Gioan Wall phải vô tù năm 1678 và bị xử tử vào năm sau. Các ngài được phong thánh năm 1970.
13/7 – Thánh Henry, Hoàng đế (972-1024)
Với cương vị là vua nước Đức và hoàng đế Rôma, vua thánh Henry là con người của công việc. Ngài mạnh mẽ trong việc củng cố quy luật, dẹp quân phiến loạn và các mối thù hận. Về các phương diện, ngài phải xử lý các vụ tranh giành để bảo vệ biên giới. Điều này khiến ngài có liên quan một số trận mạc, nhất là ở Nam Ý. Ngài cũng giúp ĐGH Bênêđictô VIII dẹp yên rối loạn ở Rôma. Mục đích tối hậu của ngài luôn là ổn định hòa bình ở Âu châu.
Theo thói quen hồi thế kỷ XI, thánh Henry dùng vị thế của mình và bổ nhiệm những người trung thành với ngài làm giám mục. Tuy nhiên, ngài tránh nguy hiểm của việc này và thực sự muốn cải cách đời sống giáo sĩ và tu sĩ.
14/7 – Chân phước Kateri Tekakwitha (1656-1680)
Chín năm sau khi các tu sĩ Dòng Tên là Isaac Jogues và John de Brébeuf bị Huron và Iroquois Indians tra tấn tới chết, một bé gái tên Kateri Tekakwitha sinh ra tại Auriesville, New York, gần nơi hai vị tử đạo kia. Kateri Tekakwitha là chân phước đầu tiên của Bắc Phi.
Mẹ ngài theo Kitô giáo, bị Iroquois bắt và cống làm vợ của trưởng tộc Mohawk, một con người trơ tráo nhất và hung dữ nhất trong Ngũ quốc (Five Nations, 5 nước). Tekakwitha là con thứ tư, cha mẹ và em trai mất vì bị bệnh đậu mùa. Dịch bệnh này còn khiến mặt bà biến dạng và gần bị lòa mắt. Bà được người chú bác nuôi dưỡng. Người chú bác này thay cha bà làm trưởng tộc, ông ghét sự xuất hiện của những “người áo chùng đen” (blackrobes, tức là các nhà truyền giáo), nhưng ông không thể làm gì vì hiệp ước hòa bình đã ký với Pháp quốc buộc cho các nhà truyền giáo có mặt ở các làng mạc có người Công giáo bị bắt giữ. Bà được đánh động bởi lời của 3 nhà truyền giáo ở với người chú bác của bà, như bà sợ người chú bác ngăn cấm. Bà cương quyết không chịu kết hôn với Mohawk, và lúc 19 tuổi, bà can đảm gia nhập Công giáo. Bà được rửa tội vào lễ Phục sinh với tên thánh là Kateri (Catarina).
Bà bị coi như nô lệ. Vì không chịu làm việc ngày Chúa nhật nên hôm đó bà không được nhận khẩu phần ăn. Bà tiến bộ nhanh trên đường nhân đức. Bà nói với một nhà truyền giáo rằng bà thường suy niệm về chân giá trị của người được rửa tội. Bà được đánh động bởi tình yêu Thiên Chúa đối với con người và thấy được nhân phẩm của người khác. Bà luôn gặp nguy hiểm vì bà gia nhập đạo, và đời sống thánh thiện của bà khiến nhiều người chống đối. Nhờ lời khuyên của một linh mục, bà trốn đi và phải đi bộ suốt 200 dặm (1 dặm là 1,6 km) để đến một làng Công giáo của người Ấn Độ ở St. Louis, gần Montreal.
Trong vòng 3 năm, bà tiến bộ trên đường nhân đức theo sự linh hướng của một linh mục và một phụ nữ lớn tuổi người Iroquois, hoàn toàn tận hiến cho Chúa trong những giờ cầu nguyện lâu, trong việc bác ái và chuyên cần ăn năn đền tội. Lúc 23 tuổi, bà khấn giữ mình đồng trinh, một hành động chưa từng thấy đối với phụ nữ Ấn độ. Bà thường vô rừng cầu nguyện mỗi ngày một giờ, thế nên bà bị người ta cho là bí mật đi hẹn trai!
Bà qua đời vào chiều thứ Tư Tuần Thánh. Các nhân chứng nói rằng khuôn mặt hốc hác của bà bỗng biến sắc và nhìn như người khỏe mạnh. Những vết nhăn và cả những vết rỗ (do đậu mùa) đều biến mất và miệng bà tươi cười. Bà được CP GH Gioan-Phaolô II tôn phong chân phước năm 1980.
15/7 – Thánh Bonaventura, Giám mục Tiến sĩ (1221-1274)
Thánh Bonaventura tu Dòng Phanxicô, là thần học gia, là tiến sĩ giáo hội, là người học thức và thánh thiện. Vì tinh thần và các tác phẩm của ngài, mới đầu ngài được gọi là Tiến sĩ Nhiệt thành (Devout Doctor), nhưng từ các thế kỷ gần đây ngài được gọi là Tiến sĩ Thiên thần Seraphim (Seraphic Doctor), danh xưng chỉ sau Giáo phụ Seraphim (Seraphic Father) là thánh Phanxicô, vì ngài cũng có tinh thần thánh Phanxicô.
Ngài sinh tại Bagnoregio, một thành phố ở Trung Ý, ngài được khỏi bệnh nặng khi còn trẻ nhờ lời cầu của thánh Phanxicô Assisi. Sau đó, ngài học nghệ thuật tự do ở Paris. Được gương sáng của thánh Phanxicô và các tu sĩ Dòng Phanxicô gợi hứng, nhất là về thần học, ngài vào Dòng Phanxicô và trở thành giáo sư thần học dạy đại học. Năm 1257, ngài được bầu làm bề trên tổng quyền (minister general) của Dòng. Ngài là khí cụ của Thiên Chúa trong việc truyền bá lòng yêu thương theo cách của thánh Phanxicô.
16/7 – Đức Mẹ Camêlô
Các vị ẩn tu sống trên Núi Camêlo gần Núi Elijah (Bắc Israel) hồi thế kỷ XII. Họ xây dựng một nhà nguyện dâng kính Đức Mẹ. Thế kỷ XIII, họ được biết đến với danh xưng “Huynh đệ Đức Mẹ Camêlô” (Brothers of Our Lady of Mount Carmel). Họ cử hành thánh lễ và phụng vụ đặc biệt kính Đức Mẹ. Năm 1726, lễ này được mừng kính trong cả giáo hội với tước hiệu Đức Mẹ Camêlô. Qua nhiều thế kỷ, các tu sĩ Dòng Camêlô (Carmelites) coi mình có quan hệ đặc biệt với Đức Mẹ. Các vị thánh lớn và các thần học gia đã thúc đẩy lòng sùng kính này và thường bênh vực mầu nhiệm Vô nhiễn Nguyên tội (Immaculate Conception).
Thánh Teresa Avila gọi Dòng Camêlô là “Dòng Đức Mẹ Đồng trinh” (the Order of the Virgin). Thánh Gioan Thánh giá tin Đức Mẹ đã cứu ngài khỏi chết đuối khi còn là một em bé, Đức Mẹ đã dẫn ngài tới núi Camêlô và giúp ngài thoát khỏi tù đày. Thánh Teresa Hài dồng Giêsu tin rằng Đức Mẹ đã chữa mình khỏi bệnh. Khi ngài rước lễ lần đầu, ngài tận hiến cho Đức Mẹ. Trong những ngày cuối đời, ngài thường nói về Đức Mẹ.
Có một truyền thống (có thể không mang tính lịch sử) rằng Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Simon Stock, bề trên Dòng Camêlô, trao cho ngài Áo Đức Bà (scapular) và nói ngài truyền bá lòng sùng kinh này. Áo Đức Bà tượng trưng sự bảo vệ đặc biệt, kêu gọi những người mang Áo Đức Bà tận hiến cho Đức Mẹ theo cách đặc biệt này. Áo Đức Bà nhắc nhớ lời Phúc âm kêu gọi cầu nguyện và sám hối – lời kêu gọi mà Đức Mẹ là mẫu mực.
Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)
(Còn tiếp)