Get Adobe Flash player

Tìm Kiếm

Đăng nhập

Thứ sáu, 11 Tháng 11 2016 15:04

Bài thuyết trình của ĐGM Giu-se Đặng Đức Ngân- Bài 5:Linh mục-Người Lính Canh Và Dấu Chỉ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa

Posted by 
Rate this item
(0 votes)
  Bài thuyết trình của ĐGM Giu-se Đặng Đức Ngân- Bài 5:Linh mục-Người Lính Canh VàDấu Chỉ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa


 Chủ đề "Linh mục - Người lính canh của Lòng Thương Xót" với bài LINH MỤC – DẤU CHỈ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA


Tin Mừng (Mc 9:35-37.41)


"Ðức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói:"Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy. Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Ðấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.

 

Ai muốn làm đầu phải là người phục vụ:
Đây là một khẳng định đanh thép của Đức Giêsu dành cho nhóm Mười Hai khi các ông đang xầm xì bàn tán xem ai là người đứng đầu trong nhóm.
Sống trong cuộc đời, ai cũng muốn có một vị thế. Đó là một ước muốn chính đáng vì ai cũng muốn thể hiện, khẳng định bản thân và cũng muốn khẳng định sự hiện hữu của mình là hữu ích cho mọi người, cho xã hội. Ước muốn có được một vị thế sẽ trở nên cực đoan khi người ta muốn có vị thế để có thể “ở trên hay thống trị” người khác.

Trong đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy các tông đồ - những người theo Chúa, sống cạnh Chúa – cũng là những người không thoát khỏi sự ham muốn địa vị.
Thực tiễn cuộc sống cho thấy một tổ chức, đoàn thể, nhóm hay gia đình luôn phải có người đứng đầu, phải có người lãnh đạo. Người đứng đầu, lãnh đạo đó đóng vai trò kiến tạo sự hiệp nhất, sự cộng tác, điều khiển, định hướng đi, định hướng hành động cho những người mình phụ trách. Kinh Thánh đã cho thấy chính Thiên Chúa, Ngài cũng muốn dân Ngài cho người lãnh đạo khi Ngài tuyển chọn các tổ phụ, các thủ lãnh, các ngôn sứ … để đứng đầu, để lãnh đạo, để hướng dẫn dân chúng. Và trong chính tông đồ đoàn, Đức Giêsu cũng đã chọn Phêrô để thánh nhân trở nên tông đồ trưởng giữa anh em.

Tuy nhiên, người lãnh đạo theo Đức Giêsu là người hầu thiên hạ. Theo đó, lãnh đạo không còn là “đứng trên mọi người và chỉ tay năm ngón” nhưng phải phục vụ trong khiêm hạ. Người đứng đầu phải là người phục vụ cho sự hiệp nhất, là người nối kết sự cộng tác của mọi thành phần, là cầu nối – là chất xúc tác (là men) làm cho cộng đoàn bùng lên giá trị Tin Mừng. Đức Giêsu chính là mẫu gương đầu tiên như thế. Người đã tự hạ trở nên con người như mọi người; được gọi là Thầy, là Rabbi nhưng đến với những con người tội lỗi, bị loại ra ngoài cộng đoàn (con chiên lạc, bệnh tật, thu thuế, đĩ điếm); là Thầy, là Chúa nhưng đã rửa chân cho các môn đệ (hành vi của người nô lệ); …

Như thế, “hầu thiên hạ” có thể được gọi linh đạo, là con đường nên thánh của những người có vai trò lãnh đạo trong cộng đoàn. Bởi lẽ, lãnh đạo trong tinh thần này không chỉ là để thu phục lòng người nhưng còn là thu phục linh hồn; chức vụ là để phục vụ cho ơn cứu độ, cho sự hiệp nhất và hiệp thông trong cộng đoàn. Và khi chu toàn sứ vụ lãnh đạo trong sự khiêm nhường và tự hạ như Đức Giêsu mời gọi, chúng ta – những người có trách nhiệm phục vụ cộng đoàn – nên thánh.
Và đó chính là hình ảnh linh mục mà Thiên Chúa muốn.

Còn Giáo Hội – Dân Chúa mong muốn linh mục như thế nào?
Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng, mẫu linh mục mà Giáo Hội, Dân Chúa mong muốn không khác biệt với hình ảnh linh mục – người đứng đầu cộng đoàn - mà Đức Giêsu mời gọi. Hay nói khác đi, tất cả những yêu cầu, những đòi hỏi của Giáo Hội, của Dân Chúa đưa ra, đều là việc cụ thể hóa những tiêu chuẩn “phục vụ” nơi người lãnh đạo mà Đức Giêsu đề ra.

Đặc biệt, trong thời gian đặc biệt, thời gian ân sủng của những ngày tĩnh tâm năm này, chúng ta cùng nhau nhìn lại những đòi hỏi, những kỳ vọng của Giáo Hội và dân Chúa đối với Linh Mục ra rao.
Tông huấn Pastores Dabo Vobis (về việc đào tạo các LM hiện nay) nhắc đến những thao thức và ước muốn của Giáo Hội và dân Chúa về Linh mục rất cụ thể: “Chính người giáo dân mong ước, cảm nhận một cách mãnh liệt nhu cầu phải có những linh mục được đào tạo hẳn hoi, những linh mục thánh thiện” (số 3). Rõ ràng, hai khía cạnh mà dân Chúa mong chờ nơi linh mục: được đào tạo hẳn hoi và thánh thiện.

Lý giải cho hai khía cạnh đó, tông huấn nói rõ các linh mục tương lai phải “biết thánh hoá bản thân khi thi hành chức vụ và biết thường xuyên cập nhật hoá đường hướng dấn thân mục vụ của mình” (số 2) vì “lâu nay khi đang thi hành chức vụ của mình, họ dường như rơi vào một sự phân tán thái quá trong những hoạt động mục vụ ngày càng tăng” (số 3).

Thật vậy, nền tảng tri thức và đời sống thiêng liêng luôn là hai yếu tố quan trọng trong đời linh mục. Hai yếu tố này phải luôn là những yếu tố “động”. “Động” ở đây theo nghĩa là “phải thích nghi với mọi thời đại và với mọi môi trường sống… Chính vì thế, trong mức độ có thể, chúng ta phải nổ lực tiếp nhận ánh sáng tối thượng của Chúa Thánh Thần, hầu khám phá ra những phương hướng của xã hội đương thời, nhận ra những nhu cầu sâu xa nhất, xác định những bổn phận cụ thể quan trọng nhất, những phương pháp mục vụ phải chấp nhận, để có thể đáp lại cách xứng hợp nhất những mong chờ của nhân loại” (số 5). Tuy nhiên, yếu tố động này không làm mất đi “diện mạo cốt yếu, không thay đổi, của người linh mục: […] phải nên giống Chúa Kitô” (số 5).
Cụ thể hơn, chúng ta sẽ đọc lại văn kiện “Sắc lệnh đào tạo linh mục của Vat. II (Optatam Totius)” và lời nhắc nhớ về hình ảnh Linh Mục của ĐTC Phanxico.

Sắc lệnh đào tạo linh mục của Vat. II (Optatam Totius)
Trong sắc lệnh này, tôi xin được đề cập về đời sống Tu Đức cần phải huấn luyện cho chủng sinh mà một linh mục tương lai cần phải có. Đó cũng là những tiêu chuẩn mà giờ đây chúng ta cũng cần phải xem lại nơi chính mình.
Trước nhất, đó phải là người có đời sống thiêng liêng sâu sắc: “Do phép Truyền Chức Thánh họ phải là hiện thân của Chúa Kitô Linh Mục, lại nữa bởi cùng chia sẻ một cuộc sống của Người, nên họ phải quen sống kết hợp với Người như bạn hữu. Họ phải sống Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người thế nào để biết khai sáng Mầu nhiệm ấy cho đoàn chiên sẽ được giao phó. […] biết tìm gặp Chúa Kitô trong việc trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các Mầu Nhiệm chí thánh của Giáo Hội, nhất là Bí Tích Thánh Thể và kinh nguyện thần vụ. […] biết tìm gặp Chúa Kitô trong Ðức Giám Mục, Ðấng sai họ đi và trong những người mà họ được sai đến, nhất là trong các kẻ nghèo khó, hèn mọn, đau yếu, tội lỗi và cả những kẻ vô tín ngưỡng. Họ phải lấy lòng tin cậy như con thảo mà tôn kính và yêu mến Ðức Trinh Nữ Maria Rất Thánh, Ðấng mà Chúa Kitô khi hấp hối trên Thánh Giá đã trối ban làm mẹ người môn đệ” (số 8).

Thứ hai là ý thức về Giáo Hội và đức vâng lời: “làm chứng sự hiệp nhất […] bằng cách thảo hiếu và khiêm tốn hiệp nhất với vị Ðại Diện Chúa Kitô, và một khi đã lãnh nhận chức Linh Mục, họ luôn liên kết với Giám Mục của mình như những cộng tác viên tín cẩn và tiếp tay cộng tác với các anh em Linh Mục khác; […] biết mở rộng tâm hồn tham gia cuộc sống của toàn thể Giáo Hội; […] cuộc đời họ không phải để thống trị hay được danh giá, nhưng để hết mình phụng sự Thiên Chúa và chu toàn bổn phận mục vụ (số 9).

Thứ ba, linh mục phải “thâm tín rằng: bậc độc thân linh mục đáng hân hoan đón nhận không phải chỉ như một mệnh lệnh do Giáo Luật, nhưng như là một ân huệ quý giá của Thiên Chúa mà họ phải khiêm tốn cầu xin, và phải mau mắn đáp ứng với tự do và quảng đại, nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy và giúp đỡ” (số 10).
Thứ tư là đức tự chủ. Các linh mục phải có một đức tính cương nghị, khả năng quyết định chín chắn và một óc phê phán xác đáng về con người và các biến cố (x. số 11).

Đức Thánh Cha Phanxico - Bài giáo lý ngày 12-11-2014

Trong bài giáo lý này, ĐTC Phanxico đã giải thích cho các thính giả về Tác Vụ Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế trong Hội Thánh, nói khác đi và vai trò của các thừa tác viên chức thánh. Trong bài giáo lý này, ĐTC đã khẳng định:
Trước tiên, “các thừa tác vụ là một hồng vô cùng to lớn của Thiên Chúa ban cho nhân loại, là dấu chỉ sống động về sự hiện diện và tình yêu của Ngài”.

Thứ hai, “những đức tính không thể bỏ qua được, vì chúng chính là sự sống - được liệt kê như những đức tính hoàn toàn nhân bản: hiếu khách, tiết kiệm, kiên nhẫn, hiền lành, đáng tin cậy, có lòng tốt. Đó là những chữ cái và văn phạm cơ bản của từng thừa tác vụ! Nó phải là văn phạm cơ bản của mỗi Giám Mục, linh mục và phó tế. Vâng, vì nếu không có thiên hướng xinh đẹp và thật sự này để gặp gỡ, hiểu biết, đối thoại, qúy mến và liên hệ với những anh em khác một cách tôn trọng và chân thành, thì họ không thể hiến tặng một việc phục vụ và chứng tá thực sự vui tươi và đáng tin cậy” (số 1).

Thứ ba, các thừa tác viên phải “ý thức rằng họ không là Giám Mục, linh mục hay phó tế bởi vì họ thông minh hơn, tài giỏi hơn và tốt lành hơn những người khác, nhưng chỉ vì nhờ một hồng ân, một hồng ân tình yêu mà Thiên Chúa ban cho họ trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, vì lợi ích của dân Ngài. […] một mục tử ý thức được rằng tác vụ của mình chỉ đến từ lòng thương xót và con tim của Thiên Chúa sẽ không bao giờ có thái độ độc đoán, như thể tất cả mọi người đều ở dưới chân của mình, và cộng đoàn là tài sản của mình, là vương quốc cá nhân của mình (số 2).

Thứ tư, đó là sự hiệp thông và cộng tác: “Ý thức rằng mọi sự đều là hồng ân, mọi sự đều là ân sủng, cũng giúp cho một mục tử không rơi vào … những cám dỗ về hư danh, kiêu căng, tự phụ và ngạo mạn. Khốn cho một Giám Mục, một linh mục hay một phó tế khi nghĩ rằng mình biết hết mọi sự, rằng mình luôn luôn có câu trả lời đúng cho tất cả mọi sự và không cần bất kỳ ai. Ngược lại, ý thức rằng mình trước hết là đối tượng của lòng thương xót và lòng từ bi của Thiên Chúa phải đưa một mục tử của Hội Thánh đến một thái độ luôn luôn khiêm tốn và cảm thông với những người khác” (số 3).

Bài giảng về vai trò của các Thừa tác viên có chức thánh, cách riêng là linh mục, được nhắc nhớ, mời gọi rất tha thiết và cụ thể trong Tông sắc năm thánh Lòng Thương Xót. Chúng ta sẽ đọc lại Tông sắc này để mỗi chúng ta, không chỉ trong năm thánh Lòng Thương Xót nhưng là trong suốt cuộc đời trong tư cách là linh mục thừa tác, chúng ta trở nên dấu chỉ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.

Linh mục – Dấu chỉ Lòng Thương Xót (Tông sắc năm thánh Lòng Thương Xót)
Chức linh mục thừa tác được thể hiện cách thông thường và rõ nét qua bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải. Lời thẩm vấn của Đức Giám mục dành cho tiến chức trong ngày thụ phong linh mục nhắc nhớ chúng ta về điều này: “Con có muốn cử hành một cách đạo đức và trung tín các mầu nhiệm của Đức Kitô, để ngợi khen Thiên Chúa và thánh hóa dân Kitô hữu theo truyền thống của Hội Thánh, nhất là trong hy tế Tạ ơn, và bí tích Hòa giải không?”

Đặc biệt, trong năm thánh Lòng Thương Xót, việc cử hành cách đạo đức và trung tín các mầu nhiệm thánh được ĐTC Phanxico mời gọi các linh mục quan tâm cách đặc biệt trong bí tích Hòa Giải (ĐTC nhấn mạnh điều này trong số 17 của Tông sắc). Ngài viết: “Cha sẽ không hề mệt mỏi trong việc lập đi lập lại rằng, các Cha Giải Tội cần phải trở thành một dấu chỉ thực sự đối với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”.

Như thế, để cử hành cách đạo đức và trung tín, trở nên dấu chỉ thực sự đối với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, linh mục trước tiên phải biết tìm kiếm ơn tha thứ cho sự thống hối của chính mình. Nói khác đi, chỉ khi nào bản thân linh mục nhìn nhận ra rằng mình là đối tượng của Lòng Thương Xót, mình cần đến Lòng Thương Xót, mình cũng là tội nhân, khi đó, linh mục giải tội mới có thể trở nên dấu chỉ thực sự của Lòng Thương Xót trong tác vụ của mình.

ĐTC nhắc nhớ chúng ta rằng, chúng ta không phải là chủ nhân của bí tích Hòa Giải, nhưng chúng ta chỉ là người quản lý, và phải là người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Điều đó đòi buộc chúng ta phải cử hành Bí Tích này với Tình Yêu tha thứ và cứu độ của Thiên Chúa, một sứ vụ cao cả mà chúng ta được Thiên Chúa mời gọi thực hiện dù chúng ta bất xứng.

ĐTC viết: “Bất cứ vị Linh mục giải tội nào cũng cần phải đón nhận các tín hữu giống như người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng: đó là một người cha đi đến với đứa con, bất chấp việc đứa con này đã phung phí tài sản của ông. Các Linh mục giải tội cần phải ôm vào lòng mình người con đang sám hối, tức người con trở về nhà, và phải diễn tả niềm vui của mình về điều đó rằng, họ đã tái tìm thấy người con. Họ cũng đừng bao giờ trở nên mệt mỏi trong việc đi đến với người con khác mà nó đang ở lại bên ngoài và không đạt tới được niềm vui. […] Họ đừng đặt ra những câu hỏi gây phiền phức, đúng hơn, họ hãy cắt ngang – như người cha trong dụ ngôn – bản tường trình đã được soạn sẵn của đứa con hoang đàng, vì họ hiểu để đọc ra tiếng kêu xin giúp đỡ và sự cần tới ơn tha thứ trong tâm hồn của một trong bất cứ hối nhân nào. Vì thế, các Linh mục giải tội được kêu gọi luôn luôn, khắp nơi, và trong mọi tình huống, bất luận đó là những tình huống nào, để trở nên dấu chỉ riêng của Lòng Thương Xót”.

Biểu lộ Lòng Thương Xót của Linh mục là “nhuốm mùi chiên !”
Hồi 9giờ30 sáng thứ Năm Tuần Thánh năm 2013 tại Đền thờ Thánh Phêrô - Rôma, ĐTC Phanxicô cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu. Ngài ngỏ lời với các Linh mục trong bài chia sẻ: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”. Đức Thánh Cha đã gợi lên một hình ảnh thật ấn tượng: mục tử phải có mùi của chiên. Người chăn chiên sống gần gũi, gắn bó với đàn chiên, lo lắng chăm sóc, bảo vệ đàn chiên của mình đến nỗi mùi của chiên đã ngấm vào không những áo quần mà cả da thịt mục tử. Linh mục, người chăn chiên về đàng thiêng liêng cũng phải như vậy.

Mục tử phải có mùi của chiên vì tính cách đồng hành của Linh mục sống dấn thân trọn vẹn cho cộng đoàn giáo xứ. Để có mùi chiên, mục tử phải chung sống với đàn chiên; đây là sự đồng hành chia sẻ; sự đồng hành này được Phúc Âm diễn tả: “Mục tử gọi tên từng con chiên và chiên nghe tiếng của mục tử, mục tử đi trước chiên và chiên đi theo mục tử”. Để có mùi chiên, mục tử phải hiện diện giữa đàn chiên để chăm sóc và bảo vệ chiên để chiên “được sống và sống dồi dào”; đây là sự đồng hành và phục vụ; phục vụ cho sự phát triển “vì tôi còn có những chiên hkác không thuộc về ràn này, tôi cũng phải đưa chúng về”, và phục vụ cho sự hiệp nhất của cả đoàn để “chỉ còn một đoàn chiên và một mục tử”. Để có mùi chiên, mục tử đồng hành và phục vụ đến mức độ sống chết vì đàn chiên; đây là đồng hành và tự hiến “Mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên”. Mục tử vì đàn chiên chứ không phải đàn chiên vì mục tử[1].

Mục tử có mùi của chiên chính là mục tử có tình yêu với đàn chiên theo gương Mục Tử Tối Cao.Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài.

Theo tinh thần của Đức Ki-tô, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn tả lòng thương xót đặc biệt của ngài với đàn chiên, đặc biệt với những con người khổ đau và bất hạnh. Hình ảnh ngài ôm hôn một người mặt dị dạng ở quảng trường thánh Phê-rô đã được truyền đi khắp nơi trên thế giới. Hình ảnh ngài cử hành Thánh Lễ rửa chân ở tại một nhà tù cho 12 trẻ vị thành niên, trong số đó có một cô gái người Hồi Giáo, trong năm đầu tiên trên tư cách Giám Mục Rôma, đã làm cho mọi người ngạc nhiên. Đó chính là tinh thần của lòng thương xót mà Chúa Giê-su mời gọi thực thi: “Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,36). Rồi Đức Thánh Cha còn quan tâm đến thăm những người vượt biển lục địa Châu Phi đến một hòn đảo của Ý Đại Lợi, như là một lời thức tỉnh cho mọi người về lòng thương xót của Chúa mời gọi: “Ta là khách lạ, các người đã đón rước” (Mt 25,35). Lòng thương xót của Thiên Chúa cũng rất cụ thể, khi chính Đức Thánh Cha đã từng gọi điện thoại đến những người bất hạnh, để chia sẻ và thoa dịu nỗi khổ đau của họ. Trong dịp ngài thăm Phi-Luật-Tân đầu năm 2015, ngài đã gặp các em bé bị bỏ rơi và là trẻ bụi đời, ngài đã nghe lời tâm tình của em gái Glyzelle Iris Palomar. Em là nạn nhân của sự bỏ rơi và em phải sống ở ngoài đường phố. Cùng với các bạn khác, em buộc phải tự kiếm sống, không cha mẹ, không nhà cửa và phải ngủ ngoài đường phố.

Phần lớn các em bị lừa vào tện nạn mãi dâm và ma túy. Một tổ chức phi chính phủ do một cha Dòng Tên thành lập, đã cứu Glyzelle và nhiều em khác ra khỏi cảnh sống ngoài đường phố, và hiện Glyzelle và các bạn được chăm sóc ở đó. Trong cuộc sống bụi đời, em đã chứng kiến nhiều đồng bạn bị cha mẹ bỏ bê đã xa vào những cạm bẫy cuả sự dữ, như nghiện ngập hoặc nạn mãi dâm. Trong cuộc tiếp kiến Đức Thánh Cha ở Phi-luật-tân, khi em đang đọc bài đã được dọn sẵn để dâng lên vị cha chung, bỗng chợt em không thể đọc tiếp bài đó, ngẩng lên nhìn Đức Thánh Cha Phanxicô, em đặt câu hỏi:- Tại sao Chuá lại để xảy ra như vậy?“Tại sao Chuá đã cho phép những sự ấy xảy ra, dù đó không phải là lỗi cuả những đứa trẻ vô tội?” Nói tới đây, em nhắm nghiền mắt lại và nức nở khóc. Cố gắng lắm, em Glyzelle mới kết thúc bằng một câu hỏi thứ hai “Và tại sao lại ít có người giúp chúng con như thế ?”

Giây phút đó, Đức Thánh Cha đã đứng dậy và bước xuống gần em bé gái. Ngài đã rưng rưng nước mắt và ôm chặt Glyzelle vào lòng. Trong bài đáp lời em Glyzelle, Đức Phanxicô đã nói: “Em ấy là người duy nhất đã hỏi một câu hỏi mà không ai có thể trả lời được. Và em ấy cũng đã không diễn tả hết được bằng lời lẽ nhưng đã bằng những giọt nước mắt”. “Tại sao con trẻ có nhiều đau khổ như thế? Tại sao một đứa bé phải chịu đau khổ?” Ngài đặt lại câu hỏi. “Chỉ khi nào mà một trái tim không thể tìm được câu trả lời và bắt đầu khóc, lúc đó chúng ta mới có thể hiểu được”. Ngài nói tiếp:“Cha mời gọi từng người trong chúng con ở đây hãy tự hỏi mình, rằng tôi đã học được cách khóc chưa, khóc như thế nào? Tôi đã học để mà khóc cho một ai đó bị bỏ rơi bên lề đường chưa? Tôi đã khóc cho một ai đó đang bị nghiện ngập chưa? Tôi đã khóc cho một ai đó bị lộng hành chưa?” “Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su đã khóc”.

Đức Thánh Cha nói. “Ngài đã khóc cho một người bạn vừa mới chết, Ngài đã khóc trong lòng cho một gia đình vừa mới mất đứa con, Ngài đã khóc khi nhìn thấy một bà goá nghèo đem chôn đứa con trai, Ngài đã rơi nước mắt, động lòng trắc ẩn, khi nhìn thấy đám đông không có ai chăn sóc”. Đức Thánh Cha nhấn mạnh hình ảnh Chúa Giê-su, Ngài đã không sử dụng lòng từ bi theo kiểu thế gian, như là dừng lại một vài giây để ban phát tiền bạc hoặc những của cải vật chất. Nhưng Chúa Ki-tô đã dành trọn thời gian để lắng nghe và an ủi, để đón nhận và chia sẻ với người dân của mình bằng trái tim cảm thông và yêu thương. Giai thoại về cuộc gặp gỡ này là một hình ảnh rất đẹp của vị chủ chăn của Giáo Hội Công Giáo sống tinh thần thương xót. Thật vậy, những gì các vị chủ chăn thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa, là một chứng từ sống động cho cả Giáo Hội cần luôn ý thức rao giảng, thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó cũng là sứ mạng của Giáo Hội.

Như thế, tác vụ “phục vụ - hầu thiên hạ” của chúng ta theo gương ĐG, không chỉ trong năm thánh Lòng Thương Xót nhưng còn trong cả cuộc đời linh mục của mình, phải là tác vụ của Lòng Thương Xót, cách riêng trong bí tích Hòa Giải. Tác vụ đó đòi buộc chúng ta: phải tinh tế và nhạy bén “đọc ra tiếng kêu xin và sự cần tới ơn tha thứ trong tâm hồn của hối nhân”.

Tuy nhiên, để có thể tinh tế và nhạy bén như thế, bản thân chúng ta cũng phải cất lên lời nguyện xin ơn tha thứ. Chính khi ý thức mình cũng cần đến ơn tha thứ, chúng ta mới có thể thông cảm và luôn quảng đại đáp ứng nhu cầu đón nhận bí tích giao hòa của mọi người trong bất cứ mọi hoàn cảnh. Đây không chỉ là lời mời gọi của ĐTC Phanxico, nhưng đây còn là quyền của người giáo dân và buộc chúng ta phải đáp ứng, vì đó là bổn phận, trách nhiệm của linh mục.

+ Giáo luật, điều 213 “Các tín hữu có quyền được lãnh nhận từ các Chủ chăn sự hỗ trợ nhờ các của cải thiêng liêng của Giáo Hội, nhất là Lời Chúa và các Bí tích.
+ Giáo luật, điều 986 về bí tích giải tội:
(1) Tất cả những người có trách nhiệm coi sóc các linh hồn buộc phải dự liệu cho giáo dân của mình được xưng tội mỗi khi họ yêu cầu cách hợp lý; lại phải ấn định ngày và giờ thuận lợi để họ tùy tiện đến xưng tội riêng.
(2) Trong trường hợp khẩn cấp, bất cứ cha giải tội nào cũng buộc phải giải tội cho tín hữu; và trong lúc nguy tử, bất cứ tư tế nào cũng buộc phải giải tội.

Vậy anh em linh mục thân mến, một lần nữa, chúng ta cần nhớ, chúng ta phải là dấu chỉ đích thực của Lòng Thương Xót. Cho nên,
Chúng ta phải hết sức để làm tròn trách nhiệm đáp ứng các nhu cầu về bí tích của anh chị em giáo dân. Đây là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta được TC chọn gọi và đặt lên để thực thi vai trò phục vụ, không phải là để được cung phụng, không phải là để trở nên những người thi ân, những con người lãnh đạo theo phong cách xin-cho. Không, chúng ta phải có trách nhiệm chu toàn bổn phận cử hành các bí tích cho anh chị em giáo dân, vì phần rỗi của họ và một cách nhưng không (như ĐTC Phanxico nói trong Tông sắc: bất cứ người nào, trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào)
Chúng ta hãy kiên nhẫn, nhẹ nhàng trong việc dạy bảo, chỉ dẫn anh chị em giáo dân. Bởi lẽ, giáo dân không được học biết như chúng ta. Chúng ta không nên cư xử hà khắc, đòi hỏi họ như những người đã được học, được đào tạo. Chính khi họ còn thiếu sót, còn chưa hiểu biết lại chính là lúc cần chúng ta thể hiện vai trò là người hướng dẫn, vai trò ngôn sứ.

Có một người đã kể lại câu truyện sau: “Một ngày cuối tuần, tôi tới thăm Nhà Hưu của quý Cha tại một thành phố tại miền Nam nước Pháp. Nhìn quang cảnh hưu quạnh vắng lặng, ánh nắng chiều với những lá khô rải rác ở sân càng làm khung cảnh cô liêu. Khi tôi bước vào Nhà nguyện, cảnh càng buồn hơn nữa, khi thấy có hơn 10 Cha già- phần lớn đang ngồi trên xe lăn cùng dâng lễ, có một cha khỏe hơn chủ tế. Nhìn các ngài trước kia từng là tổng đại diện, là giám đốc đcv, là giáo sư đại học, giáo sư đại chủng viện,...thế mà giờ đây già nua tuổi tác run rẩy không nhắc tay lên được, đến phần truyền phép các ngài chỉ còn có thể run rẩy mấp máy môi hướng lòng cùng Cha chủ tế mà thôi. Đợi các ngài dâng lễ xong, tôi có tới hỏi một cha già ngồi xe lăn: Cha có mệt lắm không? Cha già trả lời: Mệt lắm, nhưng vẫn hạnh phúc đời dâng hiến; Tôi tự nhủ, những linh mục già nua rớt rãi chảy khi dâng lễ này vẫn xác tín cuộc đời dâng hiến sao? Hình ảnh hôm nay sao khác xa hình ảnh ngày các tân linh mục mở tay; biết bao lời cầu chúc, bao bó hoa, quà, những ánh mắt ngưỡng mộ; còn hôm nay chỉ là cô độc, yếu đuối, bệnh tật, già nua, với cảnh vắng lặng không bóng người; thế mà các Cha già vẫn hạnh phúc đi nốt cuộc đời dâng hiến trong niềm tin - phó thác”.

Ước chi, linh mục chúng ta luôn được như thế, luôn là những mục tử như lòng Chúa mong muốn, luôn là dấu chỉ đích thực của Lòng Thương Xót. Xin kết thúc bằng Thánh Thi Kinh sáng các Thánh Mục tử là tâm tình mời gọi gửi tới quý Cha:

Đây linh mục, những con người thánh hiến
Suốt cuộc đời, là chủ tế trung kiên,
Đem tình thương người mục tử nhân hiền
Dâng trọn vẹn cho đoàn chiên chẳng tiếc.

Hồng ân Chúa, những hồng ân đặc biệt,
Lãnh nhận rồi, phân phát cả cho dân,
Thắt đai lưng như đầy tớ chuyên cần
Chờ đợi chủ, tay cầm đèn sáng rực.

Không mỏi mệt nhưng kiên trì tỉnh thức,
Suốt đêm trường hay mãi tới canh khuya,
Miễn làm sao kịp khi chủ trở về
Mở ngay cửa nghênh đón Người vội vã.

Vinh tụng Chúa Cha, Vua Trời cao cả,
Cùng Chúa Con, Đấng chuộc tội cứu đời,
Và Thánh Thần, lửa yêu mến sáng soi,
Hằng hiển trị bây giờ và mãi mãi.

 

Gpbanmethuot.vn

Read 2647 times Last modified on Thứ bảy, 12 Tháng 11 2016 14:53