Thứ Năm đầu tháng tuần 31 TN.
Rm 14:7-12; Lc 15:1-10
THIÊN CHÚA NHẪN NẠI
Từ ngàn xưa Thiên Chúa đã yêu thương con người, dẫu con người có tội lỗi, phản bội và bất trung, nhưng họ biết ăn năn sám hối thì Thiên Chúa vẫn “yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1), vì Thiên Chúa đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng là để kêu gọi người tội lỗi biết sám hối ăn năn.
Với hai dụ ngôn: Con chiên lạc và người đàn bà có đồng xu bị mất trong Tin mừng Luca, Thiên Chúa đã tỏ lộ lòng thương xót vô biên của Ngài cho con người, dẫu con người có lạc xa đàn, hư mất trong tội lỗi, hay đi hoang. Lòng thương xót của Thiên Chúa được cụ thể hóa bằng việc yêu thương kẻ có tội, Ngài cứu sống họ bằng mọi giá.
Vai chính là người chăn chiên và người phụ nữ. Những người chăn chiên thời Chúa Giêsu thường bị khinh miệt, vì họ là những người nghèo nàn, ít học, bị nghi ngờ gian lận, và vì phải luôn sống với đàn chiên ngoài đồng, nên họ không thể giữ luật ngày Hưu lễ cũng như không thể tham dự các giờ kinh trong Hội đường. Còn các phụ nữ là những công nhân hạng hai, theo tâm thức của Việt Nam ngày xưa: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", nhưng họ được Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để so sánh với chính Thiên Chúa.
Giá trị của những vật bị mất: một con chiên không có giá trị là bao so với đàn chiên; một đồng bạc cũng thế so với số còn lại; nhưng đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Mỗi người chúng ta cũng thế, dù là những kẻ vô danh, một con số trong bảng thống kê nhưng lại có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.
Công khó đi tìm: không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội đi tìm con chiên lạc; người phụ nữ cũng thế, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất. Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Niềm vui tìm được những vật đã mất: trên trời sẽ vui mừng và các thiên thần Chúa sẽ nhảy mừng, tượng trưng cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân ăn năn hối cải.
Con chiên đi lạc hay đồng bạc bị đánh mất, chúng không di chuyển mà chỉ ở một chỗ để có hy vọng được tìm thấy. Người chăn chiên không quản ngại nguy hiểm để đi tìm con chiên lạc, chứ không phải con chiên đi tìm ông; người phụ nữ không tiếc công sức đi tìm đồng bạc bị mất, chứ không phải đồng bạc đi tìm bà.
Lâu nay chúng ta cứ nghĩ rằng chúng ta đi tìm Chúa, nhưng thật ra Chúa đi tìm chúng ta thì phải lẽ hơn. Cũng đúng thôi, vì đã bị lạc hay đánh mất thì biết đường đâu mà về! Chúa tìm chúng ta qua những biến cố xảy ra trong cuộc đời, chỉ cần chúng ta đọc được ý muốn của Chúa trong những sự kiện ấy, thì chúng ta sẽ thấy rõ ràng Chúa luôn đi bước trước để đưa chúng ta về nẻo chính đường ngay, nếu không chắc nhiều người trong chúng ta sẽ tự phong mình là “công chính” mất!
Ta dễ dàng nhận thấy lòng của Chúa: một con chiên dù không có giá trị là bao so với cả đàn chiên, nhưng người chăn chiên cũng cất công tìm kiếm; cũng thế, một đồng bạc chẳng đáng là gì nhưng người phụ nữ đã vất vả kiếm tìm. Cho nên, khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu không có ý nói về tải sản vật chất nhưng nói về các tội nhân được Ngài tìm kiếm và đưa về. Đối với Chúa, mỗi một con người -dù tội lỗi - đều có giá trị.
Sứ mệnh của Chúa Giêsu đến trần gian là để tìm kiếm những tâm hồn đã hư mất vì tội lỗi. Ngài không quản ngại đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng và mời gọi người ta sám hối. Ngài len lỏi vào mọi ngóc nghách của cuộc sống, giao du tiếp đón mọi hạng người.
Thật vậy, Chúa Giêsu kể những dụ ngôn này trong một hoàn cảnh đặc biệt. Các luật sĩ và biệt phái lấy làm vấp phạm khi thấy Ngài giao du với những kẻ mà họ gọi là tội nhân.
Trong xã hội Do Thái, có một hàng rào ngăn cách giữa những người được xem là đạo đức và những người bị coi là tội lỗi. Các luật sĩ và biệt phái - những người tự nhận mình là đạo đức - hết sức khó chịu khi thấy Chúa Giêsu làm bạn với những người tội lỗi.
Tuy nhiên, đối với Chúa Giêsu, hạng người tội lỗi mới là đối tượng khiến Chúa phải cất công kiếm tìm: “Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất”.
Con chiên lạc, đồng bạc mất là hình ảnh của mỗi người chúng ta, vì mỗi người chúng ta trước mặt Chúa đều là tội nhân. Chỉ những ai - như biệt phái và luật sĩ kiêu ngạo - tự nhận mình là công chính mới tự loại mình ra khỏi tình thương và ơn cứu độ của Chúa.
Nếu trong đời sống thường ngày, người chăn chiên không thể ngồi yên khi thấy mất một con chiên bị lạc và người đàn bà không thể dửng dưng khi thấy thiếu một đồng bạc, thì Thiên Chúa lại càng không thể ở yên khi có một người con sa vào tội lỗi và có nguy cơ hư mất đời đời. Như vậy Con người trở thành đối tượng thương xót vô cùng của Thiên Chúa.
Dù tội lỗi của con người có “đỏ như son, Thiên Chúa cũng sẽ giặt trắng như tuyết, có thấm tựa vải điều cũng hóa trắng như bông” (Is 1,18). Tin tưởng vào lòng thường xót của Thiên Chúa, chúng ta hãy nép mình trong trái tim đầy yêu thương tha thứ của Chúa và quyết tâm trở về với Ngài để “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. (Lc 15,10)
Huệ Minh