22.7 Thánh Maria Mađalêna
Gr 3:14-17; Gr 31:10,11-12,13; Mt 13:18-23
Hoán cải
Tin Mừng hôm nay cho thấy cô có thêm một hạnh phúc mới, là người đầu tiên được gặp Chúa, được tận mắt nhìn thấy Chúa từ cõi chết sống lại.
Quả thật Chúa là Đấng từ bi nhân hậu và hay thương xót. Chỉ cần chúng ta biết ăn năn quay về với Chúa, chắc chắn Chúa sẽ bỏ qua những gì yếu đuối nơi con người chúng ta. Đón nhận chúng ta như là đón nhận cô Maria vậy.
Ma-ri-a Mác-đa-la chính là người phụ nữ đứng gần thập giá Chúa Giê-su được Gio-an nêu đích danh (Ga 19, 25). Sau này chị đã được nói tới như nhân chứng đầu tiên được Đấng Phục Sinh hiện ra với và sai đi loan báo biến cố quan trọng này cho các môn đệ khác. Nhưng tại sao lại là Mác-đa-la – một phụ nữ mà thanh danh dưới cả mức trung bình được chọn cho một danh dự lớn lao như thế? Một ngẫu nhiên chăng hay có chủ đích rõ ràng?
Thiết tưởng cùng với việc Mát-thêu – người thâu thuế được gọi làm tông đồ, Phê-rô – môn đệ chối bỏ Thầy được cắt đặt làm thủ lãnh tông đồ đoàn, Phao-lô – kẻ bắt đạo trở thành tông đồ nhiệt thành rao giảng… thì Mác-đa-la – nữ tội nhân trở thành đệ nhất chứng nhân sẽ ăn khớp cách hoàn hảo với toàn cảnh bức tranh rất hoành tráng của Tin Mừng cứu rỗi. Sau này cho dầu huyền thoại có muốn thêu dệt nên một Mác-đa-la – nữ thánh với những tình tiết như lui về Ê-phê-xô ở ẩn cùng với Ma-ri-a – Mẹ Chúa Giê-su, hay một Mác-đa-la truyền giáo miền Provence – nước Pháp với một đời sống đầy những sám hối và khổ hạnh (xem St Mary Magdalen trong Catholic Encyclopedia), thì Mác-đa-la của các sách Tin Mừng vẫn giữ nguyên nét độc đáo riêng, đáng cho chúng ta chiêm ngưỡng.
Phải là một Mác-đa-la “đã yêu mến nhiều, vì tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha” mới xứng đáng sức dầu thơm “có ý dành cho ngày mai táng Thầy” (Ga 12:7), mới xứng đáng đứng gần thập giá khi Giê-su thốt lên: “Thế là đã hoàn tất!” Rồi gục đầu xuống và trao Thần Khí’ (19:25), mới ‘sáng ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối… đã đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ… liền chạy về gặp Si-mon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến…’ (20:1-2), mới ‘đứng ngoài, gần bên mộ, mà khóc…’ (20:11), và mới âu yếm kêu lên với Người Thầy sống lại: “Ráp-bu-ni!” (20:16)
Thế đấy, chỉ có ai “đã yêu mến nhiều, vì tội… rất nhiều nhưng đã được tha” mới đáng có cái vinh dự được làm tất cả các điều ấy, và làm cách chân thành nhất với cả cõi lòng mình. Nhiều người đã muốn gọi Mác-đa-la là ‘tông đồ cho các tông đồ’ (Apostle to the Apostles), hay một nữ anh hùng của niềm tin (Protestant churches honor her as a heroine in the faith), nhưng thiết tưởng còn hơn thế nữa, chị nên được coi là mẫu mực hay tiêu biểu cho ơn gọi Ki-tô hữu qua mọi thời đại. Kể từ ngày lãnh nhận phép rửa ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, Ki-tô hữu được sách Công Vụ Tông Đồ mô tả như những con người ‘đau đớn trong lòng…’ vì nhận ra những lỗi tội mình phạm, để rồi đáp lại lời mời gọi của Phê-rô: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô để được ơn tha tội…” (Cv 2:37-38).
Rất tiếc sau này thói quen rửa tội ấu nhi đã làm cho khía cạnh căn bản và quan trọng này của ơn gọi Ki-tô hữu đễ bị lu mờ. Ki-tô hữu tiên quyết phải là những con người, trong niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô, “yêu mến nhiều, vì tội rất nhiều nhưng đã được tha”. Họ phải là những người không ngừng ‘đứng gần thập giá Đức Giê-su’, những người hàng ngày chứng kiến và làm chứng cho mọi người về cái Chết Thập Giá và Phục Sinh của Người. Tắt một lời, để có thể chu toàn xuất xắc sứ mạng được trao phó, nhất thiết họ phải kinh qua cùng một tâm trạng như Ma-ri-a Mác-đa-la thuở nào.
Thế nên không lạ gì, trong số các diện mạo khả ái hay ít khả ái hơn được các sách Phúc Âm đề cao, Mác-đa-la chiếm một vị trí đặc biệt. Ngay từ thời buổi đầu tiên, các Ki-tô hữu đã sớm nhận ra nơi chị hình ảnh của chính mình là ‘đứng gần Thập Giá’, sứ mệnh của mình là làm chứng về Giê-su đã chết và sống lại (không như một sự kiện bên ngoài, nhưng như một biến đổi sâu xa bên trong mà chính mình phải là một chứng nhân thực thụ…), và mình được sai đi loan báo Tin Mừng này cho mọi người trong hân hoan. Họ coi Ma-ri-a Mác-đa-la là ‘thánh nữ’ chính vì những điểm này hơn là bất cứ điều gì khác chị sẽ thực hiện sau này trong phần còn lại của đời chị. Họ hiểu rằng đời Ki-tô hữu của họ cũng hệ tại ở việc sức dầu ‘thống hối’ mai táng mà họ phải làm mỗi ngày, vì… “Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô ấy” (Mt 26:13).
Tin Mừng theo thánh Gioan vừa nhắc đến Thánh nữ Maria Mađalêna, vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay. Bà là người nữ được diễm phúc gặp Chúa Giêsu phục sinh đầu tiên. Khi gặp được Chúa, bà vui sướng reo mừng, bà đi báo cho các môn đệ rằng : “Tôi đã thấy Chúa”. Rồi bà kể lại cho các ông những điều Chúa đã nói với bà. Tuy nhiên thật tiếc thay, bà Maria Mađalêna đã không nhận ra được Chúa phục sinh, ngay từ phút giây đầu tiên khi Chúa xuất hiện trước mặt bà. Chúa đứng đó nhưng bà đã không nhận ra Chúa, mà phải trải qua một tiến trình với nhiều dấu hiệu, đến khi Chúa gọi tên bà, lúc ấy bà mới nhận ra Chúa.
Chúng ta tự hỏi, điều gì đã ngăn cản cản bà Maria Mađalêna không nhận ra Chúa ngay từ phút đầu tiên ấy. Thánh Gioan cho chúng ta thấy qua các dấu hiệu :
Bà Maria Mađalêna đến mộ từ sáng sớm, bà thấy dấu hiệu đầu tiên đó là “tảng đá lăn khỏi mộ”, bà không còn thấy Chúa. Với suy nghĩ của loài người, bà chỉ nghĩ được rằng “Người ta đem Chúa đi khỏi mộ và các bà chẳng biết họ để Người ở đâu ?” Bà không đủ sáng suốt để nghĩ về Chúa Giêsu, Đấng đã chữa lành bà khỏi bảy quỷ, giờ đây hẳn Ngài thực hiện quyền năng của Ngài như đã báo trước. Bà tối tăm sầu buồn đến nỗi đâu còn nhớ Chúa có đủ quyền năng, làm cho đứa con trai duy nhất của bà góa thành Naim cũng như Lazaro chết chôn trong mồ được sống lại. Bà chỉ suy nghĩ và lý giải theo cách hiểu, cách nhìn rất trần thế của bà. Tảng đá được lăn ra, mồ trống, nghĩa là Người ta đem Chúa đi. Với lối suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách suy luận của con người, thật khó để nhận ra Chúa.
Khi bà Maria Mađalêna đến mộ lần thứ hai cùng với hai môn đệ, bà không thấy mọi sự diễn ra như bà suy tính, bà buồn rồi khóc. Bỗng bà thấy dấu hiệu nữa là : hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Chúa Giêsu, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. Thiên Thần hỏi “sao bà khóc”. Thấy Thiên Thần, vậy mà bà chưa mở lòng để suy nghĩ thêm : Thiên Thần đâu dễ xuất hiện trong cuộc sống đời thường, phải có điều gì đó rất đặc biệt Thiên Thần mới xuất hiện chứ ? Rồi bà vẫn trả lời một câu y như lần trước, một câu nói như đã lập trình sẵn trong suy nghĩ kiểu loài người của bà. Bà nói với Thiên Thần : “Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu !”. Với lối suy tính và chờ mong mọi sự diễn ra theo ý mình, mà không chịu mở lòng ra với các dấu hiệu Chúa gởi đến trong cuộc đời, chắc hẳn sẽ không nhận ra Chúa.
Và rồi, khi thấy dấu hiệu là chính Chúa Giêsu đứng đó. Chúa Giêsu nói với bà : “Này bà, sao bà khóc ? Bà tìm ai ?” Bà đang vẽ ra trong đầu suy nghĩ của mình về Thiên Chúa. Nên bà tưởng Chúa là người làm vườn, liền nói : “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về”. Bà cứ mải miết bám vào các dữ liệu trần thế theo cách nhìn của bà, rằng đã có ai đó lấy xác Chúa. Giờ đây bà thấy ông này dáng vẻ người làm vườn, với suy nghĩ không đổi bà trả lời cũng vẫn bằng một câu trả lời không thay đổi, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết… Với lối tưởng tượng và suy đoán theo cách của con người, làm sao có thể nhận ra Chúa.
Hôm nay chúng ta cử hành lễ nhớ Thánh Maria Mađalêna. Khi nhắc đến người phụ nữ này, chắc chắn mọi người sẽ nghĩ đến người đàn bà tội lỗi. Người phụ nữ đã được Chúa Giê-su cứu thoát khỏi tay những người muốn ném đá cô.
Tuy tội lỗi nhưng cô đã ăn năn hối cải. Sau khi hoán cải cô đã trở nên người tông đồ nhiệt thành của Chúa. Maria đã cùng đồng hành với chúa trên con đường rao giảng Tin Mừng; theo sát chân Chúa đến đồi Can-vê. Một Maria tội lỗi suốt ngày chỉ ở trong bóng tối, giờ đây đã được Chúa giải thoát mang cô ra ánh sáng. Đó chính là ánh sáng của Chúa chiếu tỏa trên cô.
Huệ Minh