Thánh Giuse, Bạn trăm năm Đức Trinh nữ Maria Featured
Posted by Ban Biên Tập
19 20 Tr Thứ Tư Tuần II Mùa Chay.
THÁNH GIU-SE, BẠN TRĂM NĂM ĐỨC TRINH NỮ MA-RI-A, lễ trọng.
Đọc (hát) kinh Vinh Danh, kinh Tin Kính, không xướng Allêluia.
Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
2Sm 7,4-5a.12-14a.16; Rm 4,13.16-18.22; Mt 1,16.18-21.24a (hoặc Lc 2,41-51a).
LỜI CHÚA:
Mt 1,16.18-21.24a
Ông Gia-cóp sinh ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng : “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy.
THÁNH GIUSE, BẠN THANH KHIẾT ĐỨC MARIA
Trong dòng chảy của lịch sử cứu độ, ta thấy Thiên Chúa đã chọn Thánh Giuse cộng tác vào chương trình cứu chuộc, chương trình mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại, nên có thể nói, người được Thiên Chúa chọn hẳn phải là một người đủ phẩm cách đẹp lòng Thiên Chúa. Và điều đẹp lòng Chúa nhất là Tin vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa.
Quả thế, nếu đức tin của Mẹ Maria được thể hiện bằng sự khiêm tốn và vâng phục để Thiên Chúa thực hiện mầu nhiệm nhập thể: “Nầy tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như Lời sứ thần truyền. Xin hãy thành sự trong tôi, như Lời Ngài đã phán”, thì Thánh Giuse âm thầm không nói gì, không trả lời gì, mà Ngài chỉ làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà: ‘Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần’. Điều Thánh Giuse đã làm là một câu trả lời “vâng phục” bằng “đức tin” hùng hồn nhất (Rm 1,5; 16,26; 2Cr 10,5-6).
Nhìn vào cuộc đời thánh Giuse, ta thấy Ngài thể hiện niềm tin tôn giáo qua việc tuân hành lề luật được ban hành dưới thời Môsê. Luật là kim chỉ nam đời sống, luật cao trọng hơn cả bạc vàng, luật quý giá hơn những lời tinh hoa, luật nên như ánh sáng soi đường công chính. Sự công chính của một người được đánh giá xếp hạng tuỳ vào sự tuân giữ lề luật này. Luật lệ với những quy định rạch ròi, càng tuân thủ khít khao bao nhiêu, càng được đánh giá ở mức độ cao trên đàng công chính bấy nhiêu. Nhưng bước vào chương trình của Thiên Chúa, Giuse được mời gọi phải lên đường ra khỏi ý riêng vốn được luật lệ khuôn định để đến với thánh ý Chúa, đón nhận và tuân hành.
Thánh Giuse và Mẹ Maria đã đón nhận và thực hiện thánh ý của Thiên Chúa là đón nhận nhau, và cả hai cùng đón nhận Phôi Thai Đấng Cứu Thế bằng một đức tin. Từ đó, làm thành một cộng đoàn mới của Thiên Chúa, trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Việc thánh Giuse đón Đức Maria về làm vợ trong lúc Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, quả là một gương đức tin hùng hồn vào Thiên Chúa quyền năng: Thiên Chúa chọn cho Giuse một người vợ. Thiên Chúa chọn cho Maria một người chồng. Thiên Chúa chọn cho Đấng Cứu Thế những người làm Cha Mẹ. Vì quả thực, nếu để tự Giuse chọn, có lẽ Giuse không chọn Maria, vì ngại những tiếng đời dị nghị. Nhưng việc ấy không xảy ra theo ý của Giuse, mà đã xảy ra ngược lại theo ý của Thiên Chúa.
Thánh Giuse là con người của niềm tin và phó thác, một người được chia sẻ để hiểu biết Mầu Nhiệm của Thiên Chúa. Thánh nhân là con người thinh lặng. Nhưng được Thiên Chúa chọn làm Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ và được trao phó việc chăm sóc con Thiên Chúa, như một người cha.
Sự vâng phục của thánh Giuse trước thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa cũng như lời thưa “fiát” của Đức Maria đã phần nào thấm nhập vào đời sống kinh nguyện và lời rao giảng của Đức Giêsu sau này. Chúa Giêsu đã từng có một quyết định thể hiện sự vâng phục triệt để thánh ý Chúa Cha trong lúc Ngài đau khổ, cảm thấy bị xao xuyến, bị bỏ rơi trong Vườn dầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.”(Mt 26, 40). Thư Do thái cũng đã diễn tả rất hay sự vâng phục của Chúa Giêsu: “Dẫu là Con Thiên Chúa, Ngài cũng đã phải trải qua nhiều đau khổ, mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 6, 8).
Cuộc sống của thánh nhân là cả một cuộc đời âm thầm, khiêm nhượng. Ngài đã tận tụy gìn giữ gia đình Nagiarét mà Chúa trao phó cho Ngài coi sóc, trông nom. Sự tận tụy hy sinh của Ngài còn được thể hiện qua việc lo lắng cho Đức Mẹ lúc nở nhuỵ khai hoa, khi trốn sang Ai Cập, lúc trở về Nagiaret… Ở đâu và trong hoàn cảnh nào, Ngài cũng lấy đức tin để soi chiếu vào mọi suy nghĩ, hành động và việc làm của mình.
Một niềm tin được cắm rễ sâu trong việc lắng nghe vâng phục ý Chúa, đã không chỉ làm sáng danh gia đạo, nhưng còn góp phần rất nhiều vào việc hình thành nhân cách của Chúa Giêsu, và giúp Chúa Giêsu thực hiện và hoàn tất sứ mạng cứu thế, đem lại ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao với tất cả lòng tin, sự hiền lành và khiêm nhượng.
Hình ảnh người con mà đức tin cho biết là “Con Thiên Chúa” trong gia đình, có thể nói là yếu tố quan trọng vào bậc nhất trong việc hình thành đức cậy trông nơi Thánh Giuse. Người “con làm việc của Cha trên trời” và “càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan” là hoa trái của đức cậy trông mà Thánh Giuse đã miệt mài ký thác.
Thánh Giuse trong cách sống công bằng, chấp nhận cuộc sống đơn nghèo của mình để sẻ chia. Có thể thấy trong đời sống tự nguyện nghèo khó, một tâm hồn đã tôi luyện khỏi những ích kỷ, cái tôi, biện luận cho lối sống gây bất công. Cội rễ của bất công nằm trong tâm khảm của mỗi người khi “muốn ở trên và đối kháng với người khác” (Sứ Điệp Mùa Chay 2010, Benedicto XVI). Đón nhận tự nguyện đời sống nghèo khó để cùng với người nghèo khó xây dựng đời sống bảo vệ cho phẩm giá cao quý của con người, đó là chứng nhân cho công bằng giữa những bất công.
Điều quan trọng nhất là nên nhớ trong mọi tình huống của cuộc đời, chúng ta hãy chạy đến cùng thánh cả Giuse để van xin Ngài cứu giúp, nâng đỡ, chở che và bảo vệ, giúp chúng ta vượt mọi gian nguy của cuộc đời, thoát khỏi những cảm bẫy của thời đại.
Trong sách Sáng Thế có kể chuyện Tổ Phụ Giuse trong hoàn cảnh đói khổ mất mùa của toàn dân, nhà vua Ai-cập đã bảo với thần dân của mình: ”Hãy đến với ông Giuse, người dạy sao, hãy làm như vậy”. Và từ đó, “hằng ngày ông Giuse đã mở công lẫm để phân phát thực phẩm cho dân”.Hôm nay, chúng ta cũng nhìn nhận hình ảnh Tổ Phụ ấy nơi Thánh Cả Giuse để đến với Ngài. Thiên Chúa như thể muốn nhắc bảo chúng ta: ”Hãy đến với Thánh Giuse, Người dạy sao hãy làm như vậy”.
Thánh Têrêxa thành Avila đã tâm sự: “Chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng Thánh Cả Giuse mà không được như ý. Kỳ diệu thay, những ơn đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban đầy tràn cho tôi, và đã giải thoát tôi khỏi mọi nguy hiểm phần hồn cũng như phần xác, do lời cầu bầu của Vị Thánh Cả vinh phúc này”.
Thánh nữ tha thiết mời gọi tất cả những ai không tin hoặc chưa tin, hãy thử mà cậy nhờ, hãy thử cầu khẩn Thánh Cả Giuse vinh hiển, thì đoan chắc không có ơn nào mà ngài lại từ chối ! Hãy tin và tín thác vào Ngài.
Lm. Anmai, CSsR
THÁNH GIU-SE: MỘT ĐỜI SỐNG ÂM THẦM NHƯNG TRANH ĐẤU TRONG ĐỨC TIN
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ trọng kính Thánh Giu-se, Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Dù phụng vụ Mùa Chay có bầu khí sám hối riêng, chúng ta vẫn dành trọn vẹn niềm vui để suy tôn Thánh Giu-se, Đấng được mệnh danh là “Người công chính,” là “Phu quân khiêm hạ của Mẹ Ma-ri-a,” và cũng là “Dưỡng phụ yêu thương của Chúa Giê-su.” Nơi Thánh Giu-se, chúng ta bắt gặp một tấm lòng can đảm, một đức tin mạnh mẽ nhưng âm thầm, một tâm hồn luôn “thưa vâng” đối với thánh ý Thiên Chúa. Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay cũng soi sáng cho chúng ta thấy rõ hơn khuôn mặt thâm trầm mà rực rỡ đức tin này.
Trước hết, Tin Mừng (Mt 1,16.18-21.24a) kể lại nguồn gốc Đấng Cứu Độ và công cuộc tham gia của Thánh Giu-se. Thánh Mát-thêu trình bày gia phả Chúa Giê-su kết thúc bằng: “Ông Gia-cóp sinh ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su, Đấng cũng gọi là Ki-tô.” Sau đó, khi nói đến việc Đức Ma-ri-a mang thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, Thánh Mát-thêu làm nổi bật phản ứng đầy nhân từ và công chính của Giu-se: thay vì làm lớn chuyện hay tố giác, ông định lòng rút lui trong âm thầm. Thế nhưng, ý định ấy được chuyển hướng khi sứ thần báo mộng, mời gọi ông hãy đón nhận Ma-ri-a làm vợ và đón lấy Hài Nhi do Chúa Thánh Thần ban tặng. Giu-se mau mắn vâng phục thánh ý, thực hiện điều sứ thần truyền, đón Ma-ri-a về nhà và đặt tên con trẻ là “Giê-su,” vì “chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi.”
Trong đoạn Tin Mừng ấy, Thánh Giu-se không nói một lời, nhưng hành động của ông vang dội hơn bất kỳ ngôn từ nào. Tin Mừng nhấn mạnh: “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy.” Chữ “làm” ở đây diễn tả một sự tuân phục nhanh chóng và tuyệt đối trước thánh ý Thiên Chúa. Không thắc mắc, không phản kháng, cũng không viện lý do. Chỉ duy nhất một điều: vâng phục và thực thi. Qua đó, Lời Chúa mạc khải cho chúng ta biết: Thánh Giu-se quả là mẫu gương của đức tin sống động. Ngài không những “tin” bằng lòng chấp nhận, mà còn “tin” bằng hành động cụ thể. Sự phó thác triệt để ấy thể hiện đức công chính sâu xa và lòng trông cậy tuyệt đối nơi kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm, Thánh Giu-se luôn xuất hiện trong thinh lặng. Không một lời của ngài được ghi lại, nhưng hành vi của ngài lại vô cùng năng động. Ta biết ngài “đón Ma-ri-a về,” “đưa Hài Nhi Giê-su đi Bê-lem,” “dẫn gia đình trốn qua Ai Cập,” “rồi lại hồi hương về miền Ga-li-lê” theo chỉ dẫn của sứ thần Chúa. Tất cả những chuyến lên đường hay di chuyển ấy, dù gắn liền với muôn vàn khó khăn của hoàn cảnh thực tế, vẫn được Thánh Giu-se thi hành một cách mau mắn, thể hiện tấm lòng sẵn sàng hiến thân cho chương trình của Thiên Chúa. Đúng như lời Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã nhấn mạnh: Thánh Giu-se chính là “con người của niềm tin,” một niềm tin phải liên tục “lên đường,” ra khỏi sự an toàn cá nhân để đón nhận điều Chúa muốn.
Chúng ta có thể dừng lại phân tích ba “lần lên đường” rất rõ nét của Thánh Giu-se, qua đó nhận thấy đức tin kiên trung của ngài:
Thứ nhất, lên đường ra khỏi “ý riêng” để đi vào “ý Chúa.” Ban đầu, khi Ma-ri-a có thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, Giu-se bị đẩy vào tình huống vô cùng khó xử. Ông đứng giữa lề luật Mô-sê – đòi hỏi phải công khai chuyện “vị hôn thê” mang thai lạ và sự thương cảm dành cho Ma-ri-a. Với tư cách “người công chính,” lề luật buộc ông tố cáo, nhưng trái tim ông yêu thương Ma-ri-a lại không cho phép ông làm tổn hại bà. Trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, Giu-se muốn rút lui kín đáo để giữ danh dự cho Ma-ri-a. Tuy nhiên, sứ thần Chúa lại can thiệp, đề nghị ông “đừng ngại” đón bà về nhà. Đây chính là lúc Giu-se phải quyết định: tuân theo cách hành xử “dựa trên lề luật” hay đi theo “tiếng gọi” mạo hiểm của Thiên Chúa? Cuối cùng, lòng tin đã giúp ngài chọn con đường cao hơn, chấp nhận đánh đổi danh tiếng để thi hành chương trình của Chúa. Qua đó, ông “ra khỏi ý riêng” và hoàn toàn phó thác cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa.
Thứ hai, lên đường ra khỏi cuộc sống yên ả, mơ ước hạnh phúc thuần túy cá nhân để đón nhận vô vàn thách đố. Sau khi đón Ma-ri-a làm vợ, Giu-se đứng trước bao khó khăn thực tế: phải lên đường về Bê-lem khai sổ bộ đúng dịp Ma-ri-a sắp sinh, đành để Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời nơi máng cỏ nghèo hèn. Ngay khi hơi ấm niềm vui Giáng Sinh còn chưa kịp lan tỏa, ông lại tiếp tục nhận mệnh lệnh chạy trốn sang Ai Cập để bảo vệ Hài Nhi. Cuộc sống yên ổn nơi quê nhà bị xáo trộn; giờ đây, Giu-se phải đối diện với cảnh tha hương, bần hàn. Nhưng dù đi đến đâu, đối đầu với bất kể nguy nan nào, ông vẫn trung thành hoàn toàn, tin rằng sự hướng dẫn của Chúa là con đường tốt nhất cho gia đình thánh. Đó là “đức tin liều lĩnh,” dám bỏ lại mọi trật tự cũ để sống theo sự sắp đặt nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Thứ ba, lên đường ra khỏi “vòng khép kín,” chỉ nghĩ cho riêng mình, để bước vào sứ mạng “cứu thế” rộng lớn hơn. Khi vua Hêrôđê băng hà, giấc mộng thứ ba lại thúc giục Giu-se đưa gia đình trở về. Về đâu? Câu trả lời là “miền Ga-li-lê,” chứ không phải vùng Giu-đê, nơi Hài Nhi có thể sống gần kề trung tâm chính trị hay đền thờ. Thiên Chúa muốn Con của Ngài lớn lên ở miền quê Nazarét, lặng lẽ nhưng vẫn dễ dàng tiếp cận với muôn dân khi tới thời rao giảng. Giu-se “lên đường” mang tính sứ vụ: thay vì kiếm tìm an toàn chật hẹp, ông đón nhận một không gian sống mới, tạo điều kiện cho Chúa Giê-su sau này tiếp cận dân chúng dễ dàng hơn. Qua đó, Giu-se cho thấy niềm tin không co cụm, trái lại cần mở rộng biên cương, không sợ khó khăn để sứ mạng Cứu Độ của Chúa được thực hiện trọn vẹn.
Nhìn lại những điều ấy, ta thấy Thánh Giu-se thật xứng danh “người công chính,” không theo nghĩa tuân thủ máy móc lề luật, mà là một con người để cho Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a được an toàn và lớn lên trong an bài của Chúa. Chính việc “không nói một lời nhưng hành động rất nhiều” của ngài làm nổi bật tinh thần âm thầm, khiêm hạ. Chính nhờ ân sủng và lòng tin mạnh mẽ, Giu-se sẵn sàng chấp nhận quên mình để dấn bước cho Chúa. Ngài âm thầm như một nền đất, ươm mầm và đỡ nâng Hài Nhi Giê-su, để rồi Hài Nhi ấy lớn lên, thực hiện công trình Cứu Độ vĩ đại. Chúng ta tôn kính Thánh Giu-se và học nơi ngài bài học phó thác, tín trung, kiên vững, dám để Chúa dẫn dắt.
Mùa Chay là thời gian thuận lợi để ta suy ngẫm về cách chúng ta đáp trả ơn Chúa. Thánh Giu-se nhắc ta nhớ rằng Thiên Chúa có thể can thiệp vào đời sống ta theo cách khác thường. Sẽ có những biến cố vượt ngoài dự đoán, những tình huống khiến ta bối rối, thậm chí chao đảo. Nhưng nếu ta học được tấm lòng “đón nhận và thi hành” như Giu-se, biết tin rằng Thiên Chúa luôn hướng dẫn, ắt ta sẽ trông thấy hoa trái của lòng tin tưởng ấy. Một số người hay ngại ngần, nghĩ rằng mình chưa sẵn sàng cho điều Chúa mời gọi, hoặc sợ bị thiệt thòi nếu phó thác trọn vẹn. Thánh Giu-se cho thấy phần thưởng của việc tín thác nơi Thiên Chúa cao hơn vô vàn nỗi sợ. Ngài đã sống trọn phần đời làm “dưỡng phụ Chúa Giê-su” trong âm thầm, nhưng niềm vui khi có Chúa ở cùng chắc chắn tràn ngập hơn bất kỳ danh vọng nào.
Đọc bài đọc 1 (2Sm 7,4-5a.12-14a.16), chúng ta nhận thấy lời hứa của Thiên Chúa với vua Đa-vít: “Dòng dõi ngươi sẽ trường tồn... Ta sẽ làm cho triều đại ngươi vững bền.” Đây chính là lời hứa cứu độ, sau này được ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su, Đấng xuất thân từ dòng tộc Đa-vít. Thánh Giu-se, một thành viên của “con cháu Đa-vít,” đã đóng vai trò quan trọng để lời hứa đó được hiện thực. Ngài, bằng sự hoán cải nội tâm, đã trở thành người gìn giữ gia phả Con Vua Đa-vít, nhờ thế truyền thống cứu độ từ thời Cựu Ước tiếp tục vươn sang Tân Ước. Điều này vừa khẳng định vai trò cao quý của Giu-se, vừa nêu bật cách Thiên Chúa vận hành qua những con người tưởng chừng nhỏ bé, nhưng có lòng tin kiên vững.
Trong bài đọc 2 (Rm 4,13.16-18.22), Thánh Phaolô đề cao đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham, một niềm tin được coi là “điều chính yếu” dẫn đến ơn công chính hóa. Tương tự như Áp-ra-ham, Giu-se cũng phải đối diện với nhiều thử thách vượt quá khả năng suy luận, nhưng đã bước đi trên con đường “không thấy mà tin,” để rồi trở thành người cộng tác trực tiếp trong mầu nhiệm Nhập Thể. Thánh Giu-se, vì thế, là một “Áp-ra-ham mới,” từ bỏ mọi trật tự cũ, tin rằng không có gì là không thể với Thiên Chúa, và cuối cùng trở nên người đồng hành, bảo trợ Đấng Cứu Thế. Niềm tin ấy không dừng ở câu khẩu hiệu, mà thể hiện qua hàng loạt quyết định “lên đường” theo sự mách bảo của sứ thần Chúa.
Vậy, trong bối cảnh Mùa Chay, chúng ta học gì nơi Thánh Giu-se? Trước hết, chúng ta được mời gọi sống vâng phục Thiên Chúa nhiều hơn, dám đánh đổi ý riêng, danh dự, sự an nhàn, để chọn điều Chúa muốn. Thứ hai, chúng ta được mời gọi yêu thương gia đình mình. Giu-se đã hy sinh tất cả cho Đức Ma-ri-a và Hài Nhi Giê-su, lo lắng cho họ có nơi chốn nương thân, bảo đảm họ không rơi vào nguy hiểm. Người cha, người chồng trong gia đình hôm nay cần học gương Giu-se về sự bao bọc, sẵn sàng hy sinh, dù phải chịu nhiều thua thiệt. Thứ ba, chúng ta được mời gọi sống đời nội tâm sâu sắc. Giu-se không khoe khoang, không cường điệu hành trình của mình. Ngài âm thầm để Chúa dẫn dắt, lắng nghe Chúa qua những giấc mơ, qua sự trợ lực của ơn Thánh Thần, thay vì ồn ào chứng tỏ. Mùa Chay thúc giục chúng ta lặng lại, tìm gặp Chúa trong cõi lòng, đón nhận những “lời mời” tinh tế mà Chúa gửi gắm vào cuộc đời.
Để có thể áp dụng vào cuộc sống, thiết nghĩ ta hãy ghi nhớ vài điều thực tế: Thứ nhất, hãy có lòng bác ái cụ thể trong gia đình. Thánh Giu-se là mẫu gương về người cha, người chồng sẵn sàng xả thân để bảo vệ vợ và con, không màng đến an nguy bản thân. Mỗi người cha, người mẹ hôm nay cũng hãy vun đắp gia đình bằng sự hy sinh thời giờ, sự hiện diện chân thành, để con cái nhận ra gương yêu thương thực tế nhất. Thứ hai, hãy củng cố đức tin qua việc siêng năng lắng nghe và cầu nguyện. Chúa đã dùng giấc mơ để nhắn nhủ Giu-se, nghĩa là Chúa có thể dùng muôn cách để nói với ta. Điều quan trọng là ta phải chuẩn bị tâm hồn, sẵn sàng, mở lòng để “hiểu” và “làm” như Giu-se. Đừng quên Lời Chúa, những gợi ý của Giáo Hội, hay ý kiến của những người khôn ngoan xung quanh cũng có thể là tiếng Chúa mời gọi. Thứ ba, đừng ngại dấn thân cho sứ mạng. Như Giu-se không ngại đường xa di chuyển, chúng ta cũng hãy vượt qua “vùng an toàn” mà Chúa có thể đang đòi hỏi ta rời bỏ, để bước vào hành trình phục vụ Hội Thánh và tha nhân. Có thể đó là tham gia hoạt động tông đồ, bác ái, truyền giáo, hay đơn giản chỉ là một quyết định “bỏ mình” nào đó để người khác được lợi ích.
Nhìn sang chiều kích cộng đoàn, Thánh Giu-se còn là Đấng Bảo Trợ Hội Thánh hoàn vũ. Ngài là chỗ dựa vững vàng cho Mẹ Ma-ri-a và Chúa Giê-su, thì ngày nay ngài cũng trở thành “Bổn mạng Giáo Hội,” đồng hành và che chở chúng ta. Khi Giáo Hội đối diện với muôn thách đố, ta cậy trông Thánh Giu-se, để cùng ngài học bài học cậy trông sắt son, đón nhận Thánh Ý Chúa. Như xưa Giu-se giải quyết biến cố Đức Ma-ri-a thụ thai cách lạ lùng, bảo vệ Chúa Hài Nhi trước sự truy lùng của Hêrôđê, thì nay ngài vẫn tiếp tục “trấn an” ta, giúp ta tin rằng Thiên Chúa vẫn làm chủ lịch sử và Ngài ban ơn phù trợ cần thiết. Mùa Chay còn nhắc ta đừng quên thánh giá mỗi ngày. Giu-se cũng chẳng thiếu thập giá, nhưng ngài đón nhận, mang lấy và biến nó thành cơ hội tiến sâu vào tình yêu Chúa. Chúng ta cũng vậy, đừng lẩn tránh gian khó, mà hãy phó thác vào Chúa, dùng gian khó để rèn dũa đức tin.
Nếu đức tin là một sự lên đường liên tục, thì thông qua những đáp ứng lên đường mau mắn của Giuse trong những lần được mộng báo, ta có thể gọi ngài là ‘con người của niềm tin. Quả thực, trong thinh lặng, Thánh Giu-se đã minh chứng một đức tin mãnh liệt. Ngài đã lên đường ra khỏi ý riêng, sống chan hòa với kế hoạch của Chúa; lên đường ra khỏi an nhàn, dấn thân đương đầu sóng gió; lên đường ra khỏi ranh giới hạn hẹp, mở lối cho Con Thiên Chúa bước vào thế giới. Mẫu gương Giu-se vẫn tỏa sáng xuyên suốt hơn hai ngàn năm lịch sử Hội Thánh, thúc đẩy chúng ta hôm nay dám can đảm trả lời “xin vâng” với Chúa, dám lặng lẽ thực hành điều Ngài muốn.
Nguyện xin Thánh Giu-se, Đấng Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Đấng Bảo Trợ của Hội Thánh, chuyển cầu cho mỗi người chúng ta. Xin ngài nâng đỡ đức tin yếu kém của ta, để ta không ngại “lên đường” cùng Chúa trong Mùa Chay thánh. Xin ngài giúp ta noi gương âm thầm, khiêm nhường, tuân phục thánh ý, không dừng lại ở những lời tuyên xưng, nhưng đi đến hành động cụ thể của lòng mến. Xin ngài cho ta, nhất là những người cha, người mẹ, người đang gánh vác trách nhiệm, ý thức rằng mọi chức vụ hay quyền hành trong tay ta cũng phải trở thành khí cụ phục vụ. Và cuối cùng, nhờ lời bầu cử mạnh thế của Thánh Giu-se, xin cho chúng ta tìm được hạnh phúc sâu xa khi để Chúa định đoạt đời mình, để một ngày kia cùng với Thánh Giu-se, ta vui mừng trong Nước Trời nơi mọi công khó đã hóa vinh quang.
Lm. Anmai, CSsR
THÁNH GIUSE – VỊ CHA ÂM THẦM VÀ MỘT ĐỜI CHUNG THỦY
Trong ngày lễ trọng mừng kính Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria, Giáo Hội toàn cầu hân hoan tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban cho nhân loại một con người tuyệt vời, nhận lấy trách nhiệm làm cha nuôi của Chúa Giêsu và bảo vệ Mẹ Maria. Từ rất sớm, lòng đạo đức bình dân của Kitô hữu đã dành trọn tháng Ba kính Thánh Giuse với một tấm lòng đặc biệt, diễn tả niềm ngưỡng mộ đối với mẫu gương người cha thầm lặng, nhưng hết sức kiên vững. Hôm nay, chúng ta cùng chiêm ngắm nhân đức của Thánh Giuse, để qua đó nhận ra một sứ điệp vô giá cho đời sống đức tin: mỗi người chúng ta cũng được mời gọi cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, ngay cả trong âm thầm, khiêm nhường và tin tưởng tuyệt đối.
Bài Tin Mừng theo thánh Matthêu (1,16.18-21.24a) đưa chúng ta trở về nguồn gốc của Chúa Giêsu, cách riêng chú tâm đến vai trò của Giuse: “Ông Gia-cóp sinh ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô”. Chính câu mở đầu này cho thấy mối liên hệ phả hệ của Giuse với dòng dõi Đavít; và qua việc Giuse “đính hôn” với Maria, Chúa Giêsu được thuộc về danh nghĩa dòng tộc của Đavít, đúng như lời Kinh Thánh tiên báo Đấng Cứu Thế xuất hiện từ dòng tộc ấy. Đoạn Tin Mừng kế đó hé lộ một biến cố lạ thường, khởi đầu bằng những bối rối của Giuse. Thánh sử viết: “Bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.” Thật khó cho một con người bình thường như Giuse có thể hiểu thấu ngay điều này. Ấy vậy mà, giữa lúc ưu tư bủa vây, Giuse không hề có hành động nóng nảy hay chỉ trích, tố cáo Maria; ngược lại, Tin Mừng mô tả: “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.” Lòng công chính nơi Giuse biểu lộ nơi chính cách giải quyết: ngài vừa tuân thủ lề luật, vừa không nỡ làm tổn thương người bạn trăm năm.
Hành vi cao quý đó lại được soi sáng hơn nhờ cuộc viếng thăm của sứ thần: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Trước lời mặc khải này, Giuse đã ngoan ngoãn vâng phục: “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy.” Chính nhờ thái độ sẵn sàng lắng nghe, vâng phục, và hành động theo Thánh Ý, Thánh Giuse cộng tác cách đắc lực vào công trình nhập thể của Ngôi Lời. Qua sự vâng phục này, Thánh Giuse không chỉ chính thức trở thành “bạn trăm năm” của Đức Maria trong Chương Trình Cứu Độ, mà còn lãnh nhận thiên chức cao quý là “cha nuôi” của Hài Nhi Giêsu. Dù Tin Mừng không ghi lại bất cứ lời nói nào của Thánh Giuse, nhưng chính trong thinh lặng và hành động, ngài để lại tấm gương sống động về một con người sẵn sàng tin tưởng, chọn “ý Chúa” thay vì “ý mình”.
Khi phân tích và chú giải Tin Mừng, chúng ta nhận thấy Giuse đang bước đi trong cùng một lộ trình đức tin mà các tổ phụ xưa đã đi. Ông Áp-ra-ham, vị tổ phụ đức tin, cũng đã vâng phục tiếng Chúa gọi, can đảm rời bỏ quê hương để đến miền đất Chúa hứa, và sẵn sàng dâng cả con trai duy nhất làm lễ tế nếu Chúa đòi. Ngày hôm nay, Giuse cũng chấp nhận bước ra khỏi sự an toàn thường tình, đón nhận một người vợ đang mang thai mà không phải do mình, để trở thành người cha theo thánh ý. Chính vì thế, Tin Mừng như muốn so sánh Giuse với đức tin của Áp-ra-ham, và như thư Rôma (4,13.16-18.22) đã gợi lên: “Vì tin, ông được kể là công chính.” Tác giả lá thư muốn nhấn mạnh rằng Giuse cũng đang thực thi cùng một sự công chính ấy: công chính không phải chỉ vì tuân giữ luật pháp cách máy móc, nhưng công chính vì trọn niềm tin tưởng và đón nhận kế hoạch Chúa. Có lẽ cũng chẳng phải ngẫu nhiên khi trình thuật Tin Mừng nhắc đến tên Giuse ngay sau phả hệ của Đavít, bởi vì lời hứa giao ước của Thiên Chúa với nhà Đavít trong Cựu Ước vẫn tiếp tục nên trọn, và Giuse là nhân chứng cụ thể nhất.
Qua hình ảnh của Thánh Giuse, chúng ta còn thấy nổi bật nhân đức kiên trung và lòng quảng đại dấn thân để bảo vệ Đấng Cứu Thế. Biến cố tiếp theo câu chuyện không kém gian truân: Giuse phải đưa Maria vượt quãng đường xa xôi đến Bêlem để thực hiện lệnh kiểm tra dân số của Hoàng đế, khiến họ không tìm được chỗ trọ khi đến nơi, phải sinh Hài Nhi trong máng cỏ đơn sơ; rồi sau đó, vì lệnh truy sát của Hêrôđê, Giuse một lần nữa phải vâng theo sứ thần mà đưa Hài Nhi cùng Mẹ Người chạy trốn sang Ai Cập trong đêm tối. Tình phụ tử nơi ngài thể hiện rõ nét ở chỗ Ngài luôn can đảm, đôn hậu, dường như không hề so đo, than vãn. Ngài sẵn sàng hy sinh sự an nhàn của riêng mình để bảo vệ Hài Nhi và người bạn đời. Lại thêm một lần nữa, đức tin của Giuse, sự phó thác của Giuse tỏ lộ cách thuyết phục, cho thấy ngài đã triệt để đặt Chúa làm trung tâm và sẵn sàng lãnh lấy bất cứ trách nhiệm nào.
Thánh Giuse cũng là hình ảnh tuyệt vời về một con người sẵn lòng chấp nhận phần âm thầm, khuất lấp để trọn vẹn chu toàn ý Chúa. Người ta không thấy Giuse nêu bất cứ một lời than phiền, yêu sách hay khao khát nổi bật nào. Ngài chỉ âm thầm hiện diện, xắn tay áo lên với nghề thợ mộc, miệt mài làm việc hằng ngày, để duy trì cuộc sống cho gia đình Thánh Gia. Ngài dạy Chúa Giêsu những công việc của một người thợ, hướng dẫn Chúa từng bước trong đời sống nhân loại, rồi đến một ngày sau đó, khi Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ công khai, Thánh Giuse rút vào cõi lặng, giao phó tất cả trong bàn tay Quan Phòng. Ngài hoàn toàn tin rằng, công việc mà Chúa Cha ủy thác cho Ngài đã hoàn thành, giờ đây là lúc Con Thiên Chúa sẵn sàng bày tỏ vinh quang với thế giới.
Trong hành trình đức tin hôm nay, Giáo Hội tôn vinh Thánh Giuse như gương sáng cho mọi người, nhất là các bậc làm cha, các trụ cột trong gia đình, hay tất cả những ai phải đương đầu với gánh nặng trách nhiệm. Đức Thánh Cha Piô IX đã chọn ngài làm “quan thầy của Hội Thánh hoàn vũ,” nhờ sự che chở, cầu bầu và bảo trợ của ngài. Giáo Hội tin tưởng rằng, cũng như Thánh Giuse đã hết lòng chăm sóc gia đình nhỏ bé ở Nadaret, ngài vẫn tiếp tục ân cần chở che Gia đình Hội Thánh, gìn giữ Hội Thánh khỏi mọi hiểm nguy. Đức Gioan Phaolô II, trong Tông Huấn Redemptoris Custos, đã ca ngợi Thánh Giuse là “Đấng bảo vệ Đấng Cứu Chuộc,” đồng thời cũng là người gìn giữ Mẹ Maria và toàn thể Mầu Nhiệm Hội Thánh. Ngay từ buổi hừng đông của kỷ nguyên cứu độ, Thiên Chúa đã giao phó cho ngài công trình quý giá nhất: Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và ngài đã chu toàn với một lòng tận tụy không biên giới.
Đối với những ai đang làm cha, cũng như đối với những bậc làm chồng, Thánh Giuse đặc biệt là hình mẫu để noi theo. Trong xã hội hiện đại, thật dễ nhận ra nơi nhiều gia đình đang khủng hoảng vai trò của người cha. Một số ông bố quá bận rộn công việc, thiếu quan tâm, gần gũi, dạy dỗ con cái. Một số khác trở nên gia trưởng, độc đoán, lấy quyền làm cha để buộc người khác chiều theo ý riêng. Giữa một thế giới đang vật lộn với hiện tượng “mồ côi người cha,” khi trẻ em lớn lên mà không có sự hướng dẫn, đỡ nâng, yêu thương của cha, việc nhìn vào gương Thánh Giuse sẽ mang đến những định hướng quý báu. Thánh Giuse khiêm nhường, chẳng nói nhiều lời, nhưng tình yêu của ngài dành cho Hài Nhi Giêsu và Đức Maria thì dạt dào, cụ thể qua từng hành vi bảo bọc, lao động, ân cần. Ngài không tranh luận hay giải thích thừa thãi, thay vào đó, ngài lặng lẽ hành động theo chỉ thị của Chúa, luôn kiên vững trước sóng gió. Khi nhìn lên Thánh Giuse, ta thấy đây mới chính là hình ảnh người trụ cột thực sự: hy sinh âm thầm, chu toàn trách nhiệm, đặt lợi ích của gia đình lên trên bản thân, đồng thời vâng phục Thiên Chúa vô điều kiện.
Chúng ta cũng có thể áp dụng tấm gương Thánh Giuse ngay trong đời sống đức tin hằng ngày của mình. Trước hết, hãy biết khiêm nhường nhận ra giới hạn của bản thân. Có biết bao lần Chúa mời gọi chúng ta cộng tác vào các công việc tông đồ, các sứ vụ lớn nhỏ trong Giáo xứ hay trong cộng đồng, nhưng vì sợ hãi, do dự, hay lo lắng mất an nhàn, chúng ta thoái thác. Thánh Giuse khi đứng trước biến cố hoàn toàn vượt ngoài khả năng con người – việc Maria cưu mang bởi quyền năng Thánh Thần – ngài vẫn dám thưa “xin vâng” qua việc đón nhận Đức Maria về nhà mình. Mỗi lần sợ hãi trước lời mời gọi dấn thân, chúng ta hãy cầu xin Thánh Giuse trợ lực, để biết can đảm đón nhận thánh ý Chúa và kiên tâm bước đi dù chưa hiểu trọn vẹn.
Thứ đến, chúng ta hãy tập sống đức tin chín chắn, không so đo, không ồn ào. Thánh Giuse chẳng bao giờ đòi hỏi những lời chúc tụng hay tung hô, mà vẫn hết sức tận tụy làm trọn bổn phận của mình. Biết bao người trong chúng ta dễ rơi vào cám dỗ muốn được người khác công nhận, nể phục khi làm việc tốt. Có những khi ta chọn cách hành động ầm ĩ, phô trương, cốt để chứng tỏ hơn là vì tinh thần phục vụ. Thế nhưng, gương Giuse dạy ta: “Hãy phục vụ âm thầm, không cần khua chiêng đánh trống, vì Cha trên trời nhìn thấy và thấu hiểu.” Nếu ta làm việc lành vì danh Chúa, Chúa sẽ ban ân sủng, còn nếu ta làm với mục đích tìm kiếm hư danh, ta dễ sinh lòng kiêu ngạo và thất vọng.
Điểm kế tiếp, hãy yêu quý và chu toàn công việc hằng ngày của ta bằng tình yêu và niềm vui. Thánh Giuse là một người thợ mộc bình dị, kiếm sống qua từng nhát búa, nhát đục, chăm lo bữa cơm manh áo cho Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Ngài làm công việc “thường ngày” với lòng hăng say phi thường, xem đó như phương tiện thánh hóa bản thân và phục vụ gia đình. Trong thế giới hiện đại, chúng ta dễ dàng mơ về những dự định lớn lao hay công việc danh giá, nhưng thật ra, điều Thiên Chúa mời gọi mỗi người trước nhất là “sự trung tín” với trách nhiệm, bổn phận trong gia đình, trong nghề nghiệp. Chân phước Charles de Foucauld từng nói: “Chúng ta hãy nhớ rằng ở Nazaret, Chúa Giêsu đã sống 30 năm ẩn dật, lao động, vâng lời Mẹ Maria và Thánh Giuse.” Việc thánh hóa đời thường, tìm thấy Chúa trong những công việc nhỏ nhặt, chính là con đường chắc chắn để nên thánh.
Sau hết, chúng ta được mời gọi noi gương Thánh Giuse trở thành những khí cụ xây dựng, bảo vệ Hội Thánh trong thời đại hôm nay. Giáo Hội là Dân Chúa lữ hành đang đương đầu với nhiều khó khăn: khủng hoảng đức tin, ảnh hưởng tục hóa, những thử thách đạo đức... Mỗi người, dù trong cương vị nào, cũng hãy coi mình như “người giữ cửa,” “người bảo vệ” các giá trị Tin Mừng, cách khiêm tốn và bền bỉ, để cộng tác bảo vệ sự trong sáng và vẻ đẹp của đức tin truyền thống. Giống như Thánh Giuse đã ẵm bồng Hài Nhi Giêsu chạy trốn bạo vương Hêrôđê, chúng ta hãy ẵm lấy đức tin và các giá trị Kitô hữu, che chở chúng khỏi những mối nguy tiềm ẩn, can đảm lên tiếng khi cần, và nhất là luôn dành chỗ cho Lời Chúa trong gia đình. Mỗi gia đình có thể học hỏi cách thức của Thánh Gia: kiên trì lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện chung, yêu thương và nâng đỡ nhau, để Chúa Giêsu lớn lên và hiện diện trong chính đời sống chung.
Hôm nay, khi hướng về Thánh Giuse, ta tạ ơn Chúa vì người công chính mà Ngài ban cho Hội Thánh, một bậc làm chồng, làm cha đầy trách nhiệm và tự hiến. Thân phận con người vốn mong manh, nên ta càng thêm cảm phục tấm gương của Giuse – một đức tin sống động, không nản lòng trước thử thách, một tấm lòng trân quý và hiến dâng tất cả cho hạnh phúc của Mẹ Maria và Chúa Giêsu. Thánh Giuse là mẫu gương gần gũi cho mỗi người chúng ta, những người cũng chao đảo vì công việc, căng thẳng trước gánh lo gia đình, hoang mang trước tương lai. Ngài cho thấy rằng, với ơn Chúa và một lòng kiên trung, chúng ta sẽ vượt qua mọi thử thách để thi hành sứ vụ Chúa trao. Xin Chúa, qua sự chuyển cầu của Thánh Giuse, nâng đỡ chúng ta trong cuộc sống; xin Người che chở mọi gia đình, để nơi đó mỗi thành viên tìm được sự ấm áp, đùm bọc, và can đảm bước tới, đặc biệt trong những giai đoạn đầy thách đố. Nguyện xin Thánh Giuse cầu bầu cho chúng ta biết học nơi ngài sự im lặng lắng nghe tiếng Chúa, đức tin mạnh mẽ, lòng vâng phục chân thành, và tình thương hi sinh cho người khác.
Ước mong rằng, mỗi người trong chúng ta sẽ noi gương Thánh Giuse, để không bao giờ quên sự hiện diện thánh thiêng của Chúa trong gia đình mình, không bao giờ đẩy Chúa ra bên lề những dự tính cá nhân, không bao giờ ồn ào đòi hỏi quyền lợi, nhưng luôn nghiêng mình trước chương trình của Thiên Chúa và lao tác trong âm thầm với niềm tin yêu. Khi đời sống chúng ta trở nên phản chiếu nét đẹp ấy, chúng ta sẽ góp phần xây dựng một Hội Thánh thánh thiện, vững mạnh, và một xã hội đong đầy tình huynh đệ. Thánh Giuse từng bảo vệ Mẹ Maria và Hài Nhi, thì hôm nay, ngài cũng sẽ che chở chúng ta và dạy chúng ta biết đón nhận Chúa Giêsu, để Chúa là trung tâm và sức sống cho từng giây phút hiện tại. Lạy Thánh Giuse, xin cầu cho chúng con. Amen.
Lm. Anmai, CSsR
THÁNH GIU-SE, CON NGƯỜI HIỆP HÀNH
Anh chị em thân mến, hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng kính trọng thể Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm Đức Trinh Nữ Maria, Đấng mà phụng vụ coi trọng đến mức trong thánh lễ này, chúng ta đọc (hoặc hát) Kinh Vinh Danh, Kinh Tin Kính và không cử hành bất cứ lễ nào khác, trừ lễ an táng. Tầm quan trọng đó khẳng định vị trí cao quý và vai trò không thể thiếu của Thánh Giuse trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Giuse được đặt làm Bạn Trăm Năm của Đức Maria, đồng thời cũng là Đấng Bảo Trợ Giáo Hội hoàn vũ, cách riêng là Bổn Mạng của Giáo Hội Việt Nam. Phụng vụ Lời Chúa trong ngày lễ trọng này mời gọi chúng ta chiêm ngắm hành trình đức tin của Thánh Giuse qua các bài đọc: 2Sm 7,4-5a.12-14a.16; Rm 4,13.16-18.22; và đặc biệt là bài Tin Mừng Mt 1,16.18-21.24a. Những đoạn Kinh Thánh này cho thấy Thánh Giuse là một mắt xích nối kết giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa lời hứa của Thiên Chúa với nhà Đavít và việc ứng nghiệm trọn vẹn nơi Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa làm người.
Trong bài đọc trích sách Samuel (2Sm 7,4-5a.12-14a.16), Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ đã hứa với vua Đavít về một triều đại bền vững đến muôn đời. Lời hứa ấy thoạt tiên có vẻ nằm trong lịch sử của dân Israel, nhưng thực ra lại hướng đến một tương lai cao vời: Đấng Mêsia sẽ xuất hiện, là hậu duệ nhà Đavít, và Người sẽ cứu độ dân khỏi vòng tội lỗi. Thánh Giuse, theo gia phả Tin Mừng Matthêu, thuộc dòng dõi Đavít. Do đó, khi Ngôi Hai Nhập Thể vào trong cung lòng Đức Maria, Thánh Giuse trở thành chiếc cầu nối để Đức Giêsu – con bà Maria – cũng thuộc dòng tộc Đavít, hầu lời hứa “dành cho nhà Đavít” được ứng nghiệm cách trọn vẹn. Chính nhờ vai trò làm cha nuôi của Thánh Giuse, Chúa Giêsu mang danh nghĩa thuộc dòng Đavít, triều đại bền vững, đúng như ơn gọi đã được tiên báo suốt dòng lịch sử cứu độ.
Trong thư Rôma (Rm 4,13.16-18.22), Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng đức tin và lòng vâng phục đã khiến Áp-ra-ham trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. Chính nhờ tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa mà Áp-ra-ham trở thành cha của tất cả những ai tin. Và Thánh Giuse cũng tiếp nối hành trình đức tin này khi ngài sẵn sàng đón nhận mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa dù chưa hiểu hết mọi sự. Nếu đức tin của Áp-ra-ham được thử thách bằng hành trình lên núi Mô-ri-gia hiến tế con mình, thì đức tin của Thánh Giuse được thử thách trong chính biến cố thụ thai của Đức Maria “trước khi hai ông bà về chung sống” (x. Mt 1,18). Khó có lý lẽ tự nhiên nào giải thích nổi việc Đức Maria cưu mang Con Thiên Chúa. Thế nhưng, Thánh Giuse, người công chính, đã đón nhận tất cả trong niềm tin. Ngài phân định giữa ý riêng và thánh ý Chúa, cuối cùng phó thác vào sự hướng dẫn của Chúa qua sứ thần và hành động theo điều Chúa chỉ dạy.
Bài Tin Mừng (Mt 1,16.18-21.24a) kể rằng: “Ông Giacóp sinh ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.” Như vậy, Tin Mừng đã xác nhận vai trò của Thánh Giuse trong gia phả của Chúa Giêsu. Ngài không phải là cha ruột, nhưng về pháp lý, Thánh Giuse được Thiên Chúa mời gọi làm cha nuôi của Chúa Con. Đây là một quyết định đầy bối rối: khi chưa chính thức về chung sống, Đức Maria đã có thai. Thật dễ hiểu nếu trong lòng Thánh Giuse dấy lên biết bao khắc khoải, hoang mang. Bởi là người công chính, ngài không muốn làm tổn thương Maria, cũng không muốn gây tai tiếng, nên định tâm “bỏ bà cách kín đáo.” Thế nhưng, sứ thần của Chúa hiện đến báo mộng, trấn an Giuse và nhắc nhở ngài rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.” Tin Mừng kể rằng ngay khi tỉnh giấc, “ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy.” Ở đây, chúng ta chứng kiến lòng vâng phục, sự khiêm nhường và tinh thần phó thác tuyệt vời của Thánh Giuse: ngài đã bỏ ý định riêng, bước sang cuộc hành trình mới, gắn liền với sứ mạng cưu mang Đấng Cứu Độ.
Thiên Chúa là Đấng Hiệp Hành, như lời mời gọi của Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới 2023, luôn đồng hành với nhân loại trong mọi nẻo đường lịch sử. Thiên Chúa không chỉ truyền lệnh từ trời cao, nhưng trở nên một Emmanuel, một “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Muốn ở cùng con người, Thiên Chúa đã dùng sự khiêm hạ tột cùng của Con Một Ngài, sinh ra trong cung lòng Đức Maria, cần có bàn tay yêu thương của Thánh Giuse bảo bọc. Nhờ đó, Con Thiên Chúa không lớn lên ngoài xã hội một cách bơ vơ, nhưng lớn lên trong mái ấm gia đình, với sự chăm sóc tận tụy của Mẹ Maria và Thánh Giuse. Từ đó, chúng ta mới hiểu tại sao Thánh Giuse được tôn là “con người hiệp hành,” vì ngài đã để cho Thiên Chúa dùng mình để đồng hành với Đức Maria, đồng hành với Chúa Giêsu, và còn đồng hành với mỗi người chúng ta qua muôn thế hệ.
Tin Mừng cho thấy sau tiếng “xin vâng” của Thánh Giuse, ngài phải đối mặt không ít sóng gió: đưa Mẹ và Hài Nhi đi Bêlem và không tìm được nơi trọ; phải trốn sang Ai Cập lánh nạn trước cơn giận điên cuồng của vua Hêrôđê; rồi vất vả đưa Gia Đình Thánh trở về Nadarét khi mọi sự tạm lắng. Qua tất cả biến cố ấy, Thánh Giuse vẫn trung thành, lặng lẽ và chu toàn trách nhiệm mình. Ngài nêu gương một con người công chính, chấp nhận từ bỏ ý riêng, vâng phục chương trình cao cả của Thiên Chúa. Nhìn lại, chúng ta thấy Thánh Giuse không nói một lời nào trong Kinh Thánh, nhưng mọi hành động của ngài đều “nói” rất nhiều về niềm tin và lòng yêu mến. Chính cuộc đời và sứ mạng của Thánh Giuse chứng minh rằng khi để Thiên Chúa dẫn dắt, mọi khó khăn tưởng chừng bế tắc lại trở nên cơ hội để ý Chúa được triển nở.
Thánh Giuse còn là mẫu gương của sự hiệp thông, hiệp hành trong lòng Giáo Hội. Nếu Giáo Hội là Hiền Thê của Chúa Kitô, thì Thánh Giuse – Đấng đã bảo vệ, chở che Hài Nhi và Mẹ Người – cũng không ngừng nâng đỡ Giáo Hội trong mọi thời đại. Tại Việt Nam, chúng ta tôn kính ngài như Bổn Mạng, bởi chúng ta xác tín rằng khi gặp những khó khăn, thử thách, hãy chạy đến Thánh Giuse, và ngài sẽ chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta. Trong bối cảnh hiện nay, không ít những cơn sóng “luồng gió lạ” nổi lên, đe dọa sự hiệp nhất của Giáo Hội, lôi kéo không ít người nhẹ dạ cả tin. Đâu đó, vẫn có những tổ chức hoặc cá nhân tự lập ra, rời bỏ nguyên tắc hiệp thông với thẩm quyền Giáo Hội, gieo rắc hoang mang, lên án, làm mất sự bình an nơi tâm hồn các tín hữu. Đứng trước sóng gió ấy, chúng ta lại càng được mời gọi nương tựa vào Thánh Giuse, tin tưởng sự bảo trợ âm thầm nhưng hữu hiệu của ngài, đồng thời kiên trung giữ vững đức tin Công giáo đích thực, hiệp thông với Giáo Hội, lắng nghe và tuân theo sự hướng dẫn khôn ngoan của Đấng Bản Quyền.
Để áp dụng những giáo huấn này vào đời sống, trước hết, chúng ta hãy học nơi Thánh Giuse đức tính công chính. Công chính trước mặt Chúa nghĩa là luôn tìm và thực hiện thánh ý Ngài, kể cả lúc ý Chúa nghịch với suy nghĩ hay kế hoạch của ta. Thứ đến, học nơi Thánh Giuse sự vâng phục mau mắn. Là những người con Chúa, chúng ta cũng được mời gọi “tỉnh giấc” trước những dấu chỉ Chúa gởi đến qua Lời Chúa, qua Hội Thánh, qua các hoàn cảnh sống thường ngày. Một khi xác định “đây là ý Chúa,” chúng ta hãy can đảm bước theo, dù phải chịu thiệt thòi. Và cuối cùng, hãy noi gương Thánh Giuse về đức khiêm nhường, sẵn sàng làm những việc tầm thường nhất, không đòi hỏi tiếng khen hay địa vị, miễn sao Tin Mừng được rao giảng và danh Chúa được tôn vinh.
Anh chị em thân mến, khi chúng ta mừng lễ Thánh Giuse, chúng ta không chỉ tôn kính một vị thánh lớn lao trong Hội Thánh, nhưng còn đón nhận một “người cha thiêng liêng” luôn đồng hành cùng chúng ta trong hành trình đức tin. Thánh Giuse sẵn sàng che chở, bầu cử và dạy chúng ta biết cách lặng thinh để lắng nghe Chúa, biết cách can đảm để “nói ít, làm nhiều,” cũng như biết cách trung thành đảm nhận sứ mạng Chúa trao. Ước chi mỗi người chúng ta, mỗi gia đình Công giáo, và toàn thể Giáo Hội học được sự hiệp hành của Thánh Giuse: hiệp hành với Chúa và với nhau để cùng nhau xây dựng một cộng đoàn vững mạnh, đức tin kiên định, tình yêu bền bỉ và lòng cậy trông sâu thẳm.
Nguyện xin Thánh Giuse, Bạn Trăm Năm của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng hằng trung thành vâng phục, âm thầm hy sinh và khiêm nhu phục vụ, tiếp tục đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống. Xin ngài cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta ơn dám can đảm đón lấy ý Chúa với lòng tin cậy tuyệt đối, nhất là giữa muôn vàn thử thách của thời đại. Và qua việc noi gương Thánh Giuse, ước gì chúng ta biết tích cực cộng tác xây dựng một Giáo Hội hiệp hành – nơi mọi người gặp gỡ, lắng nghe và cùng nhau phân định thánh ý Chúa – để đức tin được lan tỏa, để tình yêu thương trải rộng, và để danh Chúa được rạng rỡ khắp nơi. Amen.
Lm. Anmai, CSsR