Get Adobe Flash player

Tìm Kiếm

Đăng nhập

Thứ năm, 25 Tháng 10 2012 20:13

Cuộc Khủng Hoảng Đức Tin Của Mẹ Têrêxa

Posted by 
Rate this item
(0 votes)
Sự vắng mặt của Chúa hình như đã bắt đầu gần đúng với thời gian Mẹ khởi sự chăm sóc người nghèo khổ và hấp hối tại Calcutta, và đã không bao giờ giảm bớt – trừ thời gian nghỉ ngơi dài 5 tuần lễ năm 1959.

“Chúa Giêsu dành một tình yêu rất đặc biệt cho cha. Phần con, sự im lặng và trống vắng thật lớn lao tới nỗi con nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe được”. (Thư Mẹ Têrêxa gửi Lm. Michael Van Der Peet, tháng 9 năm 1979.)

Ngày 11 tháng 12 năm 1979, Mẹ Têrêxa, vị “Thánh của Chốn Bùn lầy” đi tới Oslo. Mặc bộ y phục cá biệt của mình là chiếc sari có đường viền màu xanh và chân đi dép, bất chấp thời tiết lạnh dưới không độ, người phụ nữ ngày trước mang tên Agnes Bojaxhiu nay đến nhận vinh dự cao quý nhất trần gian, đó là Giải Nobel Hòa Bình. Trong bài diễn văn nhận giải, Mẹ Têrêxa -- người sáng lập Tu hội Bác ái Truyền giáo, một dòng tu đã phát xuất từ nỗi mê say đến cuồng dại của chỉ một người phụ nữ tại Calcutta năm 1948 để lớn mạnh thành một ngọn hải đăng chiếu sáng khắp hoàn cầu về gương chăm sóc tận tụy đến quên mình -- đã chuyển giao một thứ thông điệp mà thế giới chờ đợi lắng nghe. Mẹ phát biểu: “Đối với chúng ta, nói như thế này là còn thiếu sót: Tôi yêu mến Thiên Chúa nhưng tôi không yêu thương đồng loại. Bởi vì khi chết trên Thập giá, Chúa đã [biến] chính mình thành người đói ăn – người trần truồng – người không nhà không cửa. Nỗi đói khát của Đức Giêsu là điều ‘quý vị và tôi phải tìm cho ra’ và làm giảm bớt. Mẹ kết án nạn phá thai và than vãn về tình trạng nghiện ngập ma túy của thanh thiếu niên phương Tây. Sau cùng, Mẹ đề nghị rằng kỳ nghỉ lễ Giáng sinh sắp tới là dịp nhắc nhở cho thế giới biết “niềm vui rạng rỡ là điều có thật” vì Đức Kitô ở khắp mọi nơi – “Đức Kitô ở trong tâm hồn chúng ta, Đức Kitô ở nơi người nghèo chúng ta gặp, Đức Kitô ở trong nụ cười chúng ta ban phát và trong nụ cười chúng ta lãnh nhận.”

Vậy mà, không đầy ba tháng trước đó, trong một lá thư, mãi tới bây giờ mới được phổ biến, gửi cho cha linh hướng là Lm. Michael van der Peet, Mẹ viết bằng giọng điệu mệt mỏi quen thuộc về một Đức Kitô khác biệt, một Người xa vắng. Mẹ xác nhận với cha Van der Peet: “Đức Giêsu dành một tình yêu rất đặc biệt cho cha. [Nhưng] phần con, sự im lặng và trống vắng lại thật lớn lao tới nỗi con nhìn mà không thấy - lắng tai mà không nghe được.- lưỡi con mấp máy [nguyện cầu] nhưng không thốt nên lời…Con muốn cha cầu nguyện cho con – hầu con để mặc cho Người muốn làm gì thì làm.”

Hai lời phát biểu, cách nhau 11 tuần lễ, rất mực đối chọi nhau. Lời phát biểu thứ nhất là mẫu mực của người phụ nữ thế giới biết tới. Phát biểu thứ hai phảng phất âm hưởng của một vở bi kịch hiện sinh thời thập niên 1950. Cả hai hợp lại gợi lên một bức chân dung tự mâu thuẫn làm ta sửng sốt - người là một trong những thần tượng vĩ đại của nhân loại trong thế kỷ qua, người mà sự nghiệp đáng ghi nhớ dường như liên hệ chặt chẽ với việc kết hợp gần cận Chúa, người được các đồng sự cũng như máy ảnh truyền hình quan sát thường xuyên thấy trong cảnh nguyện cầu thinh lặng và dáng vẻ an bình – con người đó trong cõi riêng tư lại sống một thực tế tinh thần rất khác biệt, trong một khung cảnh nghiệt ngã nơi đó Thiên Chúa đã không còn xuất hiện.

Và quả thực điều đó là trường hợp (của Mẹ). Một cuốn sách mới, nhan đề không cố ý xúc phạm, Mother Teresa: Come Be My Light (Mẹ Têrêxa: Hãy Đến Làm Ánh Sáng Của Ta) (nhà xuất bản Doubleday), gồm phần chính là các thư từ trao đổi suốt trong thời gian dài 66 năm giữa Mẹ Têrêxa và các cha giải tội, các vị bề trên, cung cấp cho ta một đối cảnh tương phản về tinh thần của một cuộc đời chỉ được biết đến qua các thành quả. Các lá thư này – phần nhiều được lưu giữ trái với ước nguyện của Mẹ (Mẹ đã yêu cầu hủy đi nhưng Giáo hội bác bỏ) - cho ta biết rằng gần nửa thế kỷ trong cuộc đời Mẹ đã không cảm thấy Chúa hiện diện - hay như lời Lm. Brian Kolodiejchuk, người sưu tập và biên tập cuốn sách, đã viết: “(Mẹ) không thấy Chúa ở trong tâm hồn mình hay cả trong phép Thánh Thể.”

Sự vắng mặt của Chúa hình như đã bắt đầu gần đúng với thời gian Mẹ khởi sự chăm sóc người nghèo khổ và hấp hối tại Calcutta, và đã không bao giờ giảm bớt – trừ thời gian nghỉ ngơi dài 5 tuần lễ năm 1959. Mặc dầu luôn luôn vui vẻ trước công chúng, nhưng con người Têrêxa trong các lá thư đã sống trong một tình trạng đau khổ về tinh thần sâu đậm và dài lâu. Trong hơn 40 lần trao đổi thư từ, nhiều thư chưa bao giờ được công bố trước đây, Mẹ than van về “sự cằn cỗi”, “tối tăm”, “cô đơn”“ngược đãi” đã phải gánh chịu. Mẹ so sánh cảm nghiệm đó với hỏa ngục, và có lúc nói rằng nó đã đẩy Mẹ tới chỗ nghi ngờ về sự hiện hữu của thiên đường và ngay cả sự hiện hữu của Chúa. Mẹ nhận thức rõ rệt sự khác biệt giữa tình trạng nội tâm và thái độ của Mẹ ngoài công chúng. Mẹ viết: “Nụ cười là một chiếc mặt nạ hoặc tấm áo che đậy mọi sự.” Tương tự như thế, Mẹ nghi ngờ không biết mình có phạm phải tội dối trá bằng lời nói hay không. Mẹ thố lộ với một vị cố vấn: “Con nói như thể chính lòng con yêu mến Chúa – một tình yêu êm dịu, riêng tư – Nếu cha có [ở đó], chắc cha đã nói: ”Thật là chuyện giả hình.” Sau đây là phát biểu của Lm James Martin, biên tập tạp chí America của dòng Tên và là tác giả cuốn sách My Life with the Saints (Các Vị Thánh Trong Đời Tôi) đề cập đến các báo cáo ngắn gọn hơn năm 2003 về nỗi hoài nghi của Mẹ Têrêxa: “Tôi chưa bao giờ đọc một cuốn hạnh các thánh nào mà lại có vị thánh chịu cảnh tăm tối về tinh thần khắc nghiệt đến thế. Không ai biết là Mẹ đã bị dằn vặt đến như vậy.” Lm. Kolodiejchuk, biên tập cuốn Come Be My Light (Hãy Đến Làm Ánh Sáng Của Ta) nhớ lại: ”Tôi đọc một lá thư cho các nữ tu [dòng Bái ái Truyền giáo của Mẹ Têrêxa] nghe và các chị (ngạc nhiên) đến há hốc miệng. Điều đó sẽ cho biết có một chiều kích hoàn toàn mới về cách người ta hiểu biết về Mẹ.”

Cuốn sách khó có thể là tác phẩm của một vài phóng viên điều tra có khuynh hướng bài tôn giáo đã bới lục thùng rác đi tìm các thư từ của Mẹ Têrêxa. Cha Kolodiejchuk, một thành viên lâu năm của tu hội Bác ái Truyền giáo, là cáo thỉnh viên có nhiệm vụ đệ đơn xin tuyên thánh cho Mẹ và thu thập các dữ liệu để hỗ trợ cho thỉnh cầu này. (Cho đến nay, Mẹ đã được phong Chân phước; bước kế tiếp là phong thánh). Các lá thư trong cuốn sách được thu thập là một phần trong tiến trình đó.

Giáo hội có tiên liệu các giai đoạn trì trệ không phát triển về tinh thần. Quả vậy, Gioan Thánh giá, vị thánh nhân thần bí người Tây ban nha ở thế kỷ 16, đã dùng từ ngữ “đêm đen” của linh hồn để mô tả giai đoạn đặc biệt trong sự tăng trưởng về đường thiêng liêng của một số bậc thánh nhân cao cả. Trường hợp của Mẹ Têrêxa có thể là trường hợp gay cấn nhất được ghi lại. ( “Đêm tăm tối” của của thánh Phaolô Thánh giá (thế kỷ 18) dài 45 năm; cuối cùng người đã phục hồi lành mạnh). Vậy mà cha Kolodiejchuk lại thấy – theo bối cảnh của thánh Gioan Thánh giá – đó là sự tăm tối trong khuôn khổ đức tin. Ngay từ đầu thập niên 1960 Mẹ Têrêxa đã tìm cách sống với nỗi tăm tối đó mà không mất đức tin, không bỏ công việc làm. Cha Kolodiejchuk xuất bản cuốn sách để làm bằng chứng cho sự kiên trì tràn đầy niềm tin mà cha coi như là hành động anh hùng thiêng liêng nhất của Mẹ.

Hai người Công giáo rất khác biệt đều tiên đoán rằng cuốn sách sẽ là một dấu mốc nổi bật. Lm Matthew Lamb, chủ tịch phân khoa thần học trường Đại học bảo thủ Ave Maria tại Florida, nghĩ rằng Come Be My Light (Hãy Đến Làm Ánh Sáng Của Ta) với tư thế là cuốn tự truyện về sự tiến triển trên đường nhân đức, sẽ rốt cuộc có vị trí như cuốn Thú Tội (Confessions) của thánh Augustinô và cuốn Ngọn Núi Bảy Tầng (The Seven Storey Mountain) của Thomas Merton. Lm. Martin ở tạp chí America, một cơ quan cấp tiến hơn nhiều, gọi cuốn sách là “một thừa tác vụ mới đối với Mẹ Têrêxa, một tác vụ được viết ra về cuộc sống nội tâm Mẹ” và ngài nói: “Cuốn sách có thể được ghi nhớ ngang tầm quan trọng như tác vụ Mẹ thực hiện cho người nghèo. Nó sẽ có sứ mạng phục vụ cho những người đã cảm nghiệm nỗi hoài nghi, sự vắng mặt của Chúa trong cuộc đời. Và quý vị có biết họ là ai không? Là mọi người. Người vô thần, người hoài nghi, người đi tìm kiếm, người có đức tin, hết cả mọi người.”

Không phải mọi người vô thần và người hoài nghi đều đồng ý như vậy. Cả hai linh mục Kolodiejchuk và Martin đều cho rằng sự bất lực của Mẹ Têrêxa không nhận thấy Chúa Kitô trong cuộc đời Mẹ không có nghĩa là Chúa không hiện diện ở đó. Thực ra, họ thấy sự vắng mặt Người ở đây là một yếu tố của hồng ân Thiên Chúa đã giúp cho Mẹ thực hiện được những việc cao cả. Nhưng đối với nhóm cán bộ vô thần ngày càng quyết đoán tại Mỹ, thì lý luận nói trên dường như vô lý. Họ sẽ thấy Mẹ Têrêxa trong cuốn sách giống như người phụ nữ - trong bài hát điển hình về đồng quê pha trộn không khí miễn viễn tây - vẫn còn cầm bó đuốc chờ chồng mãi 30 năm sau khi ông đã bỏ nhà ra đi mua một bao thuốc lá và không hề trở lại. Sau đây là lời Christopher Hitchens, tác giả cuốn The Missionary Position (Vị Thế Của Người Truyền Giáo) , một luận chiến gay gắt về Mẹ Têrêxa, và gần đây hơn cũng là tác giả bản tuyên ngôn vô thần God Is Not Great (Chúa Không Cao Cả): “Không hơn bất cứ ai khác, bà chẳng được miễn trừ để khỏi nhận ra rằng tôn giáo là do loài người bịa đặt, và nỗ lực chữa trị của bà bằng cách càng tuyên xưng đức tin nhiều hơn, chỉ có thể làm cho sâu thêm hố thẳm mà bà đã tự đào cho chính mình.” Trong khi đó, một số người quen thuộc với nghị lực phi thường của bà mẹ luôn tươi cười này, có lẽ chẩn đoán tình trạng của Mẹ là một nỗ lực trong tiềm thức nhằm khiêm tốn ở mức triệt để nhất, hơn là một hồng ân của Chúa: Mẹ tự trừng phạt mình bằng một sự thất bại nặng nề để làm cân bằng với những thành công to lớn của Mẹ.

Come Be My Light (Hãy Đến Làm Ánh Sáng Của Ta) là một điều họa hiếm như vậy, một cuốn tự truyện xuất bản sau khi tác giả đã qua đời, có thể - bằng cách này hay cách khác – tạo ra cách tái thẩm định toàn diện về một nhân vật có tiếng tăm. Nó đặt những vấn đề về Thượng đế và đức tin, động lực khiến làm nên những thành quả vĩ đại, và sự kiên trì trong tình yêu thần thánh cũng như phàm tục. Vì cuốn sách trình bày không phải dưới hình thức có sắp xếp, có ý đồ, nhưng như là một mớ hỗn độn những ghi chép trong lúc thất vọng không có chủ tâm đưa ra ngoài ánh sáng, nên làm cho độc giả càng tin hơn rằng đó là tài liệu đích thực – và họ, có đôi chút kinh ngạc, đang chạm tới cuộc sống nội tâm chân thật của một vị thánh thời hiện đại.

Gần Đến Mức Kết Hợp Xuất Thần

[Chúa Giêsu]: Con từ chối không chịu làm việc này cho Cha sao?...Vì tình yêu Cha con đã trở thành Hiền thê của Cha – con đã đến Ấn độ vì Cha. Cơn khát các linh hồn của con đã đem con (đến đây) từ trước tới giờ – Con sợ không dám bước thêm một bước nữa vì Người Bạn Trăm Năm của con sao? – vì Cha – vì các linh hồn? Lòng quảng đại của con lạnh giá đi sao? Đối với con Cha chỉ là người thứ yếu ư?

[Têrêxa]: Giêsu, Giêsu của riêng con – Con chỉ thuộc về mình Chúa – Con ngu đần biết mấy – Con không biết nói gì nhưng xin làm nơi con bất cứ việc gì Chúa muốn – như Chúa muốn – bao lâu Chúa muốn. (Nhưng) tại sao con không thể làm một nữ tu toàn hảo dòng Loreto – tại đây – tại sao con không thể giống bất cứ ai khác.

[Chúa Giêsu]: Cha muốn có các Nữ tu Ấn độ, dòng Bác ái Truyền giáo, để làm ngọn lửa yêu thương giữa đám người nghèo khổ, người đau yếu, kẻ hấp hối và các trẻ nhỏ…Cha biết con là người bất lực nhất – yếu đuối và tội lỗi nhưng chính bởi vì con là người như thế - nên Cha muốn dùng Con để vinh danh Cha. Con từ chối được sao?

(đối thoại trong lúc cầu nguyện, do Tổng Giám mục Ferdinand Perier thuật lại, tháng giêng 1947.)

Ngày 10 tháng 9 năm 1946, sau 17 năm dạy học tại Calcutta với các Nữ tu Loreto ( một tu hội gốc ở Ái nhĩ lan (Ireland), không phải là dòng kín, chuyên về giáo dục) Mẹ Maria Têrêxa, lúc đó 36 tuổi, lấy xe lứa đi Darjeeling, cách Calcutta khoảng 400 miles (645 km). Mẹ đã làm việc quá sức nên đau yếu và các vị bề trên truyền cho Mẹ nghỉ ngơi trong cuộc tĩnh tâm hằng năm tại vùng chân núi Himãlạpsơn. Trên đường đi, theo Mẹ cho biết, Chúa Kitô đã lên tiếng nói với Mẹ. Chúa bảo Mẹ bỏ công tác dạy học và thay vào đó làm việc nơi các “khu ổ chuột” tại đô thị, phục vụ trực tiếp “những người nghèo nhất trong các người nghèo” – đó là người bệnh hoạn, người hấp hối, người ăn xin và các trẻ em hè phố. Chúa nói với Mẹ: “Hãy tới, hãy tới đi, hãy mang Cha tới những khu vực tối tăm của người nghèo. Hãy đến làm ánh sáng của Cha.” Mục tiêu đặt ra vừa vật chất vừa truyền giáo – như lời Lm Kolodiejchuk - “để giúp họ sống cuộc sống có phẩm giá [và nhờ vậy] tìm gặp được tình yêu vô biên của Chúa, và khi đã biết Chúa rồi thì sẽ yêu mến và phục vụ Người để đáp trả.”

Thật cực kỳ táo bạo – một chiến dịch không có tài chánh, đơn độc (Mẹ Têrêxa qui định rằng Mẹ và các nữ tu của Mẹ sẽ chia sẻ sự nghèo khổ với những người được phục vụ và khởi đầu công tác một mình) để phục vụ cho từng cá nhân những kẻ nghèo nhất trong một đô thị nghèo đến tuyệt vọng vì bạo loạn. Đức Tổng Giám mục địa phương, Ferdinand Périer, lúc đầu tỏ ra nghi ngại. Nhưng những lá thư Mẹ gửi cho ngài, hiện còn được lưu giữ, làm sáng tỏ hai đặc tính liên kết với nhau, đó là - rất mực kiên trì và cá nhân gắn bó thiết tha với Chúa. Khi Tổng Giám mục Périer ngập ngừng, thì Mẹ Têrêxa – giữa lúc tự xưng là “người nhỏ bé không là gì cả” – lại liên tiếp hết đợt này tới đợt khác gửi đến những thỉnh cầu xin ngài trình bày vấn đề lên một danh sách các vị có thẩm quyền từ dưới lên trên: phái bộ Tòa thánh tại địa phương, Mẹ Bề trên Tổng quản, Đức Giáo hoàng. Và khi Mẹ cảm thấy mọi sự đều thất bại, Mẹ tiết lộ ra Đấng có vị trí thiêng liêng cao nhất: một cuộc đối thoại xúc động (quả thực là đầy xúc động) với “Tiếng Nói” mà Mẹ thường tiết lộ là của Đức Kitô. Kết cục là Đức Giêsu lặp lại một cách xác định lời Người kêu gọi Mẹ: “Cha biết con là người bất tài nhất – yếu đuối và tội lỗi, nhưng chính vì con như vậy – nên Cha muốn dùng con làm kẻ Vinh danh Cha. Con sẽ từ chối ư?”

Mẹ Têrêxa đã có được những thị kiến, một lần chính Mẹ đàm đạo với Đức Kitô trên thập giá. Cha giải tội của Mẹ là Celeste Van Exem xác nhận rằng những cảm nghiệm thần bí của Mẹ là có thực. Cha bình luận:”Sự kết hợp [của Mẹ] với Chúa thì thường xuyên và sâu xa mãnh liệt, từ chỗ đó đến mức độ mê đắm dường như không xa lắm.” Mẹ Têrêxa sau này chỉ viết một cách giản dị: “Đức Giêsu ban chính Người cho tôi.”

Thế rồi đến ngày 6 tháng giêng năm 1948, Đức Tổng Giám mục Périer, sau khi tham khảo với Tòa thánh, cuối cùng cho phép Mẹ Têrêxa dấn thân vào ơn gọi thứ hai của Mẹ. Và chính Chúa Giêsu một lần nữa lại bỏ ra đi.

(còn tiếp)

 

Phụng Nghi dịch (Theo Times)

Read 1348 times Last modified on Thứ hai, 29 Tháng 10 2012 16:17