Đức Mẹ Maria, Niềm Ơn Phúc và Hy Vọng trong Chúa Kitô
Posted by Ban Biên Tập
Trong cuộc hành trình tiến đến sự hiệp nhất toàn diện, giáo hội Công giáo và các giáo hội liên hiệp Anh giáo, từ nhiều năm qua, đã chăm chú nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến đức tin mà chúng tôi cùng chia sẻ, cũng như đến phương cách chúng tôi diễn đạt những vấn đề này trong đời sống và trong phụng vụ của hai giáo hội tin kính này.
Chúng tôi đệ đạt những phát biểu đã được đôi bên đồng ý lên Toà Thánh và lên liên hiệp Anh giáo, để các vị có thẩm quyền bình luận và làm cho sáng tỏ vấn đề nếu cần, và chấp nhận như một đồng thuận của đức tin Anh giáo và Công giáo Roma.
Để đạt đến khuôn mẫu cho quyết nghị chung đó, chúng tôi dựa trên Thánh Kinh và trên truyền thống chung đã có từ trước thời Cải cách và Canh Tân. Như các tài liệu trước của Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma, với tài liệu này, chúng tôi sẽ tiếp tục cố gắng dùng ngôn từ chung, và thăng hoa các dị biệt trong quá khứ. Đồng thời, chúng tôi phải đương đầu với các định nghĩa cơ bản tín điều tạo thành nền tảng và quen thuộc cho đức tin của người Công giáo Roma, nhưng lại rất lạ với đức tin Anh giáo. Các thành viên của Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma đã hết sức cố gắng tìm cách tháp nhập cách này hay cách khác một thần học cụ thể, và cùng nghiên cứu khung cảnh lịch sử mà nơi đó các tín điều đã phát triển. Để được như vậy, chúng tôi đã phải học hỏi để tiếp nhận những canh tân truyền thống riêng của mỗi tôn giáo, được soi sáng và đào sâu qua niềm hiểu biết và tri ân các truyền thống khác.
Quyết định chung liên quan đến đức Trinh Nữ Maria như tiến trình của niềm ân sủng và hy vọng là một suy tư mãnh liệt, khi cố gắng tìm kiếm những gì chúng tôi có chung, và cử hành những khía cạnh quan trọng trong gia tài chung của chúng tôi. Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, đứng trước chúng ta như một biểu tượng của sự vâng phục trung tín. Lời Mẹ nói "Xin Vâng như lời Ngài truyền" là câu trả lời đầy ân sủng mà mỗi người chúng ta cần đáp ứng với Chúa qua tư cách riêng hoặc tư cách chung như giáo hội là thân mình Đức Kitô. Như hình ảnh của giáo hội, đôi tay của Mẹ đã đưa lên cao cầu nguyện và chúc tụng. Đôi tay của Mẹ mở rộng như lãnh nhận và chào đón ơn Chúa Thánh Linh, khi chúng ta cùng nên một với Mẹ Maria lúc Mẹ chúc tụng Chúa. Qua Tin Mừng thánh Lu-ca, Mẹ đã hát bài ca: "Quả thật, từ nay muôn đời sẽ gọi tôi có phúc."
Cả hai truyền thống của chúng tôi đã chia sẻ nhiều lễ hội liên hệ đến Mẹ Maria. Từ những kinh nghiệm đó, chúng tôi thấy rằng, chính trong lãnh vực thờ phượng, mà chúng tôi nhận ra sự đồng thuận sâu thẳm của mình khi chúng tôi tạ ơn Đức Chúa Trời đã ban Mẹ của Thiên Chúa cho chúng ta. Mẹ là đấng hiệp nhất với chúng tôi trong cộng đồng của yêu thương và của cầu nguyện, khi chúng tôi cùng hiệp thông với các thánh.
Tổng giám mục Alexander J. Brunett, Công giáo, đồng chủ tịch
Tổng giám mục Peter F. Carnley, Anh giáo, đồng chủ tịch
Tại Seattle, Lễ Dâng con trong đền thờ, Ngày 2 tháng 2 năm 2004
Hoàn cảnh bản văn
Tài liệu này được ấn hành do kết quả công việc của Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma. Đây là bản tuyên ngôn chung. Các vị hữu trách khi bổ nhiệm uỷ ban, đã cho phép tài liệu xuất bản, mục đích sao cho nhiều nơi rộng rãi thảo luận. Giáo hội Công giáo và liên hiệp Anh giáo không dùng quyền bính tuyên bố phải tuân phục văn kiện này. Hai giáo hội sẽ học hỏi và lượng gía tài liệu theo đúng thời gian cần thiết.
Các trích dẫn từ Thánh Kinh do từ bản "New Resived Standard Version." Một vài trường hợp, uỷ ban dùng chính bản dịch của mình.
Dẫn nhập.
1. Khi tôn vinh Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, các thế hệ Anh giáo và Công giáo Roma cùng vang dội lên lời chào mừng của thánh I-sa-ve: "Em có phúc hơn các phụ nữ và Giêsu, quả phúc của lòng em đầy phúc lộc" (Lu-ca 1:42) Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma giờ đây mong ước đặt lời tuyên bố chung này về Mẹ Maria trong đời sống và đức tin của giáo hội với niềm hy vọng, tài liệu này diễn đạt đức tin chung của chúng ta về Đấng, mà mọi tín hữu đều biết đã gần với Chúa Giêsu Kitô cứu thế, Chúa của chúng ta hơn cả. Chúng tôi làm việc này theo lời yêu cầu của hai giáo hội để trả lời các câu hỏi đã được đưa ra.
Một uỷ ban đặc biệt gồm các giám mục Anh giáo và Công giáo Roma đã nhóm họp dưới sự chủ tọa của tổng giám mục Canterbury, tiến sĩ George Carey, và Hồng y Edward I. Cassidy, chủ tịch Hội đồng giáo hoàng đặc trách hiệp nhất Kitô giáo. Uỷ ban đã họp tại Mississauga, Canada, vào năm 2000, nhằm mục đích yêu cầu Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma "học hỏi về Mẹ Maria trong đời sống và đức tin giáo hội." Lời yêu cầu này nhắc nhớ lại nhận xét của Bản báo cáo Malta (1986) rằng "những khác biệt thực sự hoặc hình như là khác biệt giữa chúng ta xuất hiện trong các vấn đề liên quan đến các tín điều về Đức Maria, được tuyên tín vào năm 1854 và 1950 (1). Gần đây hơn, trong văn kiện Ut Unum Sint (1995) đức giáo hoàng Gioan Phaolo II xác định một lãnh vực mà mọi truyền thống Kitô giáo cần học hỏi thêm, trước khi đi đến sự đồng thuận chung về đức tin, đó là "Đức trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và biểu tượng của giáo hội, Mẹ tinh thần, đấng cầu bầu cho các môn đệ Chúa Kitô và cho toàn thể nhân loại" (số 79)
2. Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma đã đề cập đến vấn đề này, tức là vấn đề "Đức trinh nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và biểu tượng của giáo hội, Mẹ tinh thần, đấng cầu bầu cho các môn đệ Chúa Kitô và cho toàn thể nhân loại" một lần. Văn kiện "Quà Tặng và Quyền bính trong giáo hội II" (1981) đã ghi nhận trình độ đồng ý như sau:
"Chúng tôi đồng ý xác quyết rằng chỉ có một đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người, đó là đức Giêsu Kitô. Chúng tôi phản bác bất cứ sự giải thích nào về vai trò của Đức Maria, nếu những giải thích đó ngược với điều xác quyết trên. Chúng tôi đồng ý khi công nhận sự hiểu biết Kitô giáo về Mẹ Maria liên hệ chặt chẽ không thể rời khỏi các tín điều về Chúa Kitô và về giáo hội. Chúng tôi đồng ý khi công nhận ân sủng và và ơn gọi độc nhất của Mẹ Maria, Đấng cưu mang Thiên Chúa (Theotokos) (2), đang khi cử hành các lễ hội về Mẹ theo sự tôn vinh dành cho Mẹ khi hiệp thông với các thánh. Chúng tôi đồng ý rằng Mẹ đã được chuẩn bị do ân sủng thần thiêng làm Mẹ đấng cứu chuộc của chúng ta. Chính nhờ Người mà chính Mẹ được cứu chuộc và được được vinh quang. Chúng tôi còn đồng ý hơn nữa khi công nhận Mẹ Maria là biểu tượng của sự thánh thiện, vâng phục và đức tin cho mọi Kitô hữu. Chúng tôi chấp nhận rằng cũng có thể nhìn đến Mẹ như khuôn mẫu sứ ngôn của giáo hội Chúa trước cũng như sau khi Chúa nhập thể (số 30)
Tuy nhiên, cùng bản văn đó đã đưa ra những khác biệt:
‘’Các tín điều về Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội và linh hồn và xác lên trời đã đề ra một số vấn nạn cho những người theo Anh giáo. Họ nghĩ rằng các định nghĩa ngắn gọn trên, coi như là tín điều, đã không đủ chứng cớ trong Thánh Kinh. Với nhiều tín hữu Anh giáo, thì các lời huấn giáo dựa trên năng quyền của đức giám mục thành Roma, khi tuyên bố ngoài Công đồng, tức là những tín điều thuộc về Mẹ Maria, không coi là tín điều buộc mọi người tín hữu phải tin. Người Anh giáo cũng đặt câu hỏi rằng, trong tương lai, qua các sự kết hợp giữa hai tôn giáo, phải chăng họ cũng phải tuân theo các lời tuyên tín như vậy? (Số 30)
Những vấn đề nêu trên đã được đặc biệt ghi nhận trong bản văn trả lời chính thức của Toà Thánh cho ‘’Bản Tường Trình Cuối’’ (năm 1991, số 13). Sau khi suy xét các niềm tin chung và các vấn nạn kể trên như điểm khởi hành cho các suy tư, giờ đây chúng tôi có thể khẳng quyết hơn nữa các đồng ý chung quan trọng về vị thế của Mẹ Maria trong đời sống và trong đức tin của giáo hội.
3. Văn kiện chung đại kết này đưa ra một thông cáo đầy đủ hơn về niềm tin của chúng tôi liên quan đến đức Trinh nữ Maria, đồng thời cung cấp nguồn mạch văn bản cho những tri ân chung khi nghiên cứu các tín điều thuộc về Mẹ Maria. Chúng tôi cũng thảo luận các khác biệt khi thực hành, bao gồm cả lời khẩn cầu minh nhiên dành cho Mẹ Maria. Bản văn kiện chung đại kết này đã xử dụng tài liệu văn bản nghiên cứu trước. Đó là tài liệu ‘’Quà tặng và Quyền Bính’’ (Gift and authority), xuất bản năm 1999. Từ đó, chúng tôi kết luận rằng khi giáo hội nhận và nhìn nhận điều mà giáo hội coi như sự diễn đạt chân chính của truyền thống đã trao ban cho các tông đồ, thì sự nhận biết đó là một tác động mang cả hai tính cách trung thành và tự do.
Tự do trả lời qua những phương cách sống động khi đối diện với các thách đố mới, chính là điều giúp giáo hội trung thành với truyền thống mà giáo hội đã sống. Đôi lúc, một vài phần trong tông truyền có thể bị quên lãng, bị lờ đi hoặc bị lạm dụng. Trong những hoàn cảnh này, sự trở về nguồn Thánh Kinh và truyền thống dẫn đến sự mặc khải của Thiên Chúa trong Đức Kitô: Chúng tôi gọi tiến trình này là tái đón nhận (Xc. ’Quà tặng và Quyền Bính’, 24-25). Tiến trình trong các cuộc đối thoại và tìm hiểu đại kết gợi ý rằng bây giờ là lúc chúng tôi có cơ hội để cùng tái đón nhận truyền thống mới về vị thế của Mẹ Maria trong ơn mặc khải của Thiên Chúa.
4. Ngay từ ban đầu, Uỷ ban Quốc Tế Anh giáo và Công giáo Roma đã cố gắng tìm kiếm các luận cứ chống đối hoặc ủng hộ nhằm khám phá và mở mang một gia tài đức tin chung (Xc. ''Quà Tặng và Quyền Bính I, 25). Tiếp theo bản ''Tuyên ngôn chung'' năm 1966 của đức giáo hoàng Phaolo VI và đức tổng giám mục thành Canterbury, tiến sĩ Michael Ramsey, chúng tôi tiếp tục ''đối thoại nghiêm chỉnh.. dựa trên Phúc âm và trên truyền thống cổ thời chung.'' Chúng tôi đã đặt câu hỏi là, đến mức nào thì tín điều và sự sùng kính Mẹ Maria thuộc về ''sự đón nhận'' hợp thức của tông truyền, theo như Thánh Kinh dậy bảo. Truyền thống này có tận trong tâm điểm ''nhiệm cuộc cứu độ'' Ba Ngôi. Tâm điểm này làm nền tảng cho đời sống và đức tin của giáo hội trong sự hiệp thông thánh của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúng tôi đi tìm hiểu nhân vị và vai trò của Mẹ Maria trong lịch sử cứu độ và trong đời sống giáo hội dưới ánh sáng soi dẫn của thần học ân sủng và hy vọng. Nền thần học này đâm rễ sâu trong các kinh nghiệm dài lâu của phụng vụ và sùng mộ Kitô giáo.
5. Ân sủng của Chúa mời gọi và giúp người đáp trả (Xc. ''Ơn cứu chuộc và Giáo hội'' -Salvation and the Church- 1987, số 9). Các đoạn phúc âm về truyền tin, khi sứ thần kêu mời Mẹ Maria biểu lộ ân sủng này. Sự nhập thể và các chi tiết liên hệ, gồm cả trình thuật thương khó, chết và phục sinh của Chúa Kitô, sự chào đời của giáo hội, đã đạt đến cao điểm qua lời "Xin Vâng" đầy tự do của Mẹ Maria -''xin thể hiện nơi tôi theo như lời Ngài truyền'' (Lu-ca 1:38). Chúng ta còn nhận ra trong biến cố nhập thể Chúa đã nói ''Xin Nhận'' (3) với toàn thể nhân loại.
Điều này nhắc nhở chúng ta một lần nữa lời của thánh tông đồ trong thư thứ hai gửi giáo đoàn Corinthô 1: 18-20 (Xc. Quà Tặng và Quyền Bính, 8..). Tất cả những lời hứa của Chúa đã xuất hiện trong lời ''Xin Nhận'' của Con Chúa, Đức Giêsu Kitô. Trong mạch văn Xin Vâng của Mẹ Maria, chúng ta trông thấy giây phút siêu vượt của người tín hữu nói lời Xin Vâng (Amen) khi đáp trả lại tiếng "Xin Nhận" của Chúa. Người môn đệ Kitô đáp trả bằng Xin Vâng trong lời kinh Amen (4). Họ biết rằng họ là con của cùng chung một cha trên trời, do cùng một Thánh Thần sinh ra, là anh chị em của Đức Giêsu Kitô. Họ cùng hiệp thông một nguồn mạch tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa.
Đức Maria cô đọng niềm hiệp thông đó trong đời sống Thiên Chúa. Câu trả lời của Mẹ không thiếu suy tư. Câu trả lời đã hoà lẫn giữa niềm vui và sầu muộn, dẫn đưa Mẹ đến tận chân thập giá của con mình. Khi các Kitô hữu hiệp ý cùng với Mẹ Maria trả lời Xin Vâng (Amen) với lời ''Xin Nhận'' của Thiên Chúa trong Đức Kitô, họ đã chấp nhận trả lời cách vâng phục Lời Chúa là lời dẫn đưa đến đời sống cầu nguyện và phục vụ. Giống như Mẹ Maria, họ không chỉ tôn vinh Chúa bằng môi miệng: họ chấp nhận phục vụ công lý của Chúa bằng chính đời sống mình (Xc. Lu-ca 1: 46-55)
A. Mẹ Maria theo Thánh Kinh.
6. Chúng tôi xác tín rằng Thánh Kinh, lời Chúa được viết ra (5) (tức là Thánh Kinh), là chứng nhân căn bản cho chương trình cứu chuộc của Chúa. Do đó, để hiểu về Mẹ Maria, cần nhìn đến Thánh Kinh. Quả thực, không thể trung thành với Thánh Kinh mà không nghiên cứu kỹ lưỡng Mẹ Maria. Tuy nhiên, chúng tôi nhìn nhận, trong một số thế kỷ, Anh giáo và Công giáo đã giải thích khác nhau. Khi cùng suy niệm đoạn Thánh Kinh liên quan đến Mẹ Maria, chúng tôi khám phá ra nhiều điểm hứng khởi trong cuộc đời của vị đại thánh này. Chúng tôi thấy mình đang suy niệm với lòng ngưỡng mộ và tri ân toàn thể tiến trình lịch sử cứu chuộc: sự tạo dựng, lựa chọn, nhập thể, thương khó và sống lại của Chúa Kitô, ân điển Chúa Thánh Thần trong giáo hội, và viễn kiến cuối cùng của dân Chúa hướng về cuộc sống đời đời trong sự tạo dựng mới.
7. Trong những đoạn kế tiếp, chúng tôi sẽ dùng Thánh Kinh rút ra truyền thống trọn vẹn của giáo hội, mà trong đó nhiều bài đọc khác nhau và phong phú đã được xử dụng. Trong tân ước, cựu ước thường được dùng để cắt nghĩa bóng (6). Các biến cố và hình ảnh mang ý nghĩa riêng nhắm đến Chúa Kitô. Các vị giáo phụ và các nhà giảng thuyết thời trung cổ đã khai triển rộng rãi phương cách này. Các vị thời Phục Hưng (7) khi nhấn mạnh đến nét trong sáng và vẹn toàn của Thánh Kinh, đã kêu gọi người nghe hãy trở về nguồn tâm điểm của Thánh Kinh. Các phương cách phê bình-lịch sử cố gắng tìm ra ý nghĩa mà các tác giả Thánh Kinh muốn nhắm đến và nhìn nhận giá trị nguyên gốc văn bản. Mỗi phương pháp trên có giới hạn của mình, và dễ đưa đến sự quá trớn hoặc mất thăng bằng: nghĩa bóng có thể trở thành quá đáng, Phục hưng nhấn mạnh đến giảm trừ, còn phê bình lịch sử thì quá chú tâm vào lịch sử. Các phương cách nghiên cứu Thánh Kinh gần đây đã đưa ra một khoảng đo lường dành cho các bài đọc, nhất là những bài về mang tính cách trình thuật, hùng biện hoặc xã hội.
Trong bản thông cáo chung này, chúng tôi tìm kiếm giá trị của mỗi phương cách trên cũng như sửa sai và đóng góp vào việc xử dụng Thánh Kinh. Hơn nữa, chúng tôi nhìn nhận rằng, không có văn bản nào hoàn toàn trung lập, nghĩa là mỗi bản văn hình thành do mạch văn và do cảm nhận của người đọc. Văn bản của chúng tôi lấy ra theo mạch văn đối thoại giữa hai tôn giáo trong Đức Kitô, nhắm đến sự hiệp thông theo như ý của Người. Do đó, đây là văn bản mang tính cách đại kết và giáo hội, đang khi chúng tôi cố gắng hiểu biết về Đức Maria trong mạch văn tân ước như nguồn mạch trọn vẹn, và cũng dựa trên cựu ước cũng như ánh sáng truyền thống.
Chứng nhân Thánh Kinh: Một dự phóng của Ân Sủng và Hy vọng.
8. Cựu ước làm chứng công trình tạo dựng nên người nam và người nữ theo hình ảnh của Chúa, làm chứng cho lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa với con người qua các liên hệ Giao ước. Ngay cả khi con người bất tuân, Chúa cũng không bỏ quên họ trong tội và trong quyền lực của sự chết. Lần này qua lần khác, Chúa mời gọi con người đến với giao ước ân sủng. Chúa thiết lập giao ước với ông No-e khi hứa rằng sẽ chẳng bao giờ "con người" bị lụt hồng thủy hủy hoại. Chúa thiết lập giao ước với Abraham và qua ông, mọi gia đình trên mặt đất sẽ được chúc phúc. Qua Mai-sen, Ngài thiết lập giao ước với dân Israel, nếu họ vâng lời Ngài, họ sẽ trở thành quốc gia thánh thiện và dân tộc tư tế.
Các ngôn sứ liên tục mời gọi dân chúng lìa bỏ sự bất tuân phục, trở về với Chúa nhân hậu của giao ước, lãnh nhận lời Chúa và để lời Chúa sinh nhiều hoa trái trong cuộc đời. Các ngài hướng về sự canh tân giao ước, trong đó bao gồm một sự vâng phục trọn vẹn và một sự hiến thân trọn vẹn: "Đây là giao ước Ta sẽ thiết lập với nhà Israel sau những ngày này, Chúa nói: Ta sẽ đặt luật của Ta trong họ, và Ta sẽ viết luật trong tim họ. Ta sẽ là Chúa của họ, và họ sẽ là dân của Ta" (Jerêmia. 31: 33). Trong lời tiên tri của ngôn sứ Ezechiel, hy vọng này không chỉ mang ý nghĩa tẩy sạch và rửa sạch, nhưng còn là ơn Chúa Thánh Thần (Ezêchiel 36: 25-28)
9. Giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài đã nhiều lần giống như mối tình giữa Chúa với Israel, người con gái trinh nữ Zion, hiền thê và mẹ: "Ta long trọng thề với bạn và ký kết giao ước với bạn, Chúa toàn năng phán, và bạn thuộc về Ta (Ezêchiel 16:8; Xc. Isaia. 51:4, Galat 4: 27). Ngay cả khi trừng phạt dân cứng lòng, Chúa vẫn luôn trung tín, hứa sẽ tái lập liên hệ giao ước và quy tụ dân bị tản mác lại (Hosea. 1-2; Jerêmia. 2: 2, 31: 3; Is. 62: 4-5). Hình ảnh ngày cưới cũng được dùng trong Tân ước để diễn tả liên hệ giữa Chúa Kitô với giáo hội (Êphêsô. 5: 21-33; Khải huyền 21: 9)
Song song với hình ảnh tiên tri về Israel như hiền thê của Chúa, văn chương Salomon (8) của cựu ước diễn đạt ơn Khôn ngoan thánh như nữ tì của Chúa (Cách ngôn. 8: 22..; Xc. Khôn ngoan 7: 22-26). Salomon đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự đáp trả và sinh hoạt tạo dựng. Trong tân ước, các lý do tiên tri và khôn ngoan này gồm chung thành một với nhau (Lu-ca: 11: 49) và hoàn tất khi Chúa đến.
10. Thánh Kinh cũng nói đến việc Chúa gọi riêng một số người như David, Elia, Giêremia và Isaia, nhờ đó có những người riêng biệt làm các công tác riêng biệt. Họ làm chứng cho ân điển của Thánh Thần hoặc sự hiện diện của Chúa, chu toàn ý định và chương trình của Chúa. Người ta cũng tìm thấy nhiều đoạn suy tư sâu thẳm về điều Chúa cho biết và mời gọi dành riêng cho một người nào đó từ thưở ban đầu của người này (Thánh vịnh 136: 13-16; Jer. 1:1-5).
Cảm giác thán phục về ân điển theo thời gian (prevenient grace) của Chúa đã biểu lộ cách tương tự như vậy, nhất là trong thư của thánh Phaolô khi ngài nói đến "những người được gọi theo chương trình của Chúa," khẳng định rằng những ai Chúa đã "biết từ trước, ngài cũng tiền định cho xứng hợp với hình ảnh người con của Ngài... Và những ai Ngài tiền định, Ngài đã kêu gọi; và những ai Ngài kêu gọi, Ngài cũng Công chính hóa; và những ai Ngài công chính hóa, Ngài đã tôn vinh họ (Roma. 8: 28-30; Xc. 2 Timothê 1: 9). Sự chuẩn bị của Chúa cho một nhiệm vụ sứ ngôn còn lộ rõ qua thí dụ cụ thể, là lời sứ thần nói với tiên tri Zacharia trước khi Gioan tiền hô sinh ra: "Trẻ sẽ tràn đầy ơn Thánh Thần ngay từ trong lòng Mẹ" (Luca 1: 15; Xc. Quan án 13:3-5)
11. Tiếp theo dự phóng của ân sủng Thiên Chúa và hy vọng con người đáp trả trọn vẹn lời mời gọi của Chúa như chúng ta đã trình bầy ở các chương trên, người Kitô hữu phải, hiệp ý với các tác giả viết tân ước, nhìn thấy cao điểm của dự phóng này trong sự tuân phục của Đức Kitô. Trong mạch văn Kitô học, họ nhận ra một tiến trình tương tự trong nhân vật sẽ đón nhận Lời trong tim và trong thân xác của chị, được Thánh linh bao phủ và sinh ra con Thiên Chúa. Tân ước không chỉ nói đến tiến trình Chúa chuẩn bị cho Người Con giáng trần, mà còn nói đến Chúa tuyển chọn, mời gọi và thánh hóa một phụ nữ Do Thái theo cung cách tương tự trường hợp của các phụ nữ thánh thiện như Sarah và Hannah, là những người mà con của các bà đã hoàn thành chương trình của Thiên Chúa với dân Ngài.
Phaolo nói về con Thiên Chúa sinh ra "trong thời viên mãn" và"do một người phụ nữ, sinh ra dưới lề luật" (Gal 4:4). Sự giáng sinh của Người Con Mẹ Maria là sự viên mãn của ý Chúa cho dân Israel, và thông phần của Mẹ Maria trong sự viên mãn là lời đáp trả tự do và chấp nhận tin tưởng bằng lòng dâng hiến chính mình: "Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền" (Lu-ca 1: 38; Xc. TV 123:2)
Mẹ Maria sinh con theo trình thuật Mát-thêu.
12. Trong khi nhiều đoạn trong tân ước đề cập đến Chúa Kitô giáng sinh, chỉ có hai phúc âm, Mát-thêu và Lu-ca, mỗi phúc âm theo ý hướng của mình, kể lại câu truyện giáng sinh và đề cập cách đặc biệt đến Mẹ Maria. Mát-thêu khởi đầu cho sách tin mừng với "gia phả Đức Giêsu Kitô" (1:1) khiến người đọc liên tưởng đến cách mà Thánh Kinh bắt đầu (Sáng thế ký 1:1). Trong đoạn gia phả, Mát-thêu đi lên nguồn gốc của Chúa Giêsu từ cuộc lưu đầy, đến vua David, cho đến nguồn Abraham. Thánh nhân nhắc nhở vai trò quan trọng trong lịch sử cứu chuộc Israel do 4 phụ nữ mà mỗi người đưa dẫn đến tận biên giới của giao ước.
Như chúng ta thấy, Mát thêu đã cân bằng các biến cố xoay quanh việc nhập thể của Chúa Giêsu bằng cách nhấn mạnh tính liên tục của các thế hệ trong cựu ước, song song với trình thuật Chúa Giêsu giáng sinh, khi nhấn mạnh đến sự tái tạo mới (Xc. 9: 17) do Chúa Thánh Thần, mặc khải những khả năng cứu chuộc khỏi tội (1: 21). Hơn nữa, Mát-thêu còn mở rộng giới hạn khi đề cập đến nguồn gốc của Chúa Giêsu từ ngành David qua người cha hợp pháp là Giuse, và Chúa giáng sinh qua cung lòng của đức Nữ trinh theo lời tiên tri Isaia tiên báo "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai" (Is. 7: 14)
13. Trong văn bản Mát-thêu, tác giả nhắc đến Mẹ Maria khi có những liên quan giữa Mẹ và con của mình qua những câu như " Maria Mẹ Người" hoặc "trẻ thơ với Mẹ Người" (2:11; 13, 20, 21). Giữa những biến động chính trị, giết chóc và hỗn loạn, đã có một giây phút thinh lặng đầy tôn kính mang tính cách rất Kitô: Các nhà đạo sĩ, mà nghề nghiệp của họ xuất hiện theo đúng thời gian, quỳ gối tôn phục trẻ thơ là vua, cùng với mẫu nghi Mẹ Người (2: 2, 11)
Mát-thêu nhấn mạnh sự liên tục của Chúa Giêsu Kitô vào tiến trình trông chờ cứu chuộc, và một tiến trình Mesia mới lạ mà người Do thái vẫn trông chờ, do Chúa giáng sinh mang lại. Sinh ra từ dòng dõi David, dù bằng cách nào đi nữa, và sinh trong thành thánh, vương giả, biểu lộ cho thấy điều thứ nhất, tức là sự trông chờ cứu chuộc. Mang thai từ cung lòng trinh nữ mặc khải điều thứ nhì, tức là sự mới lạ Mesia.
Mẹ Maria sinh con theo trình thuật Lu-ca.
14. Theo trình thuật Lu-ca, thì vai trò Đức Mẹ Maria nổi bật ngay từ đầu. Mẹ là gạch nối giữa thánh Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu. Hai vị chào đời với nhiều phép lạ tương đồng. Mẹ nhận lời sứ thần truyền và đáp trả trong tâm tình vâng phục khiêm cung (1: 38). Mẹ tự du hành từ Galilê đến Ju-đê-a viếng thăm bà Isave (1:40). Qua bài ca, Mẹ đã chúc tụng chương trình cánh chung, chương trình sẽ là tâm điểm cho con của Mẹ rao giảng Nước Trời.
Maria là đấng suy niệm trong lòng những biến cố đang xẩy ra (2: 19, 51) và biểu lộ chiều sâu của đức tin và của những khổ đau (2: 35). Mẹ đã thay mặt Giuse đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ, dù thoạt đầu có vẻ Mẹ đã không tiếp nhận trọn vẹn những gì con nói, nhưng đã tiếp tục lớn lên trong sự hiểu biết (2: 48-51).
15. Trong trình thuật Lu-ca, hai biến cố đặc biệt mời chúng ta suy nghĩ về chỗ đứng của Mẹ Maria trong đời sống giáo hội: truyền tin và đi viếng bà thánh Isave. Những đoạn văn này nhấn mạnh cho thấy Mẹ Maria trong một cách duy nhất, đã là người lãnh nhận ân sủng và được Chúa chọn cách đặc biệt.
Trình thuật truyền tin tóm gọn nhiều đề tài lớn trong cựu ước, nhất là đề tài về sự chào đời của Isaac (Sáng thế ký 18: 10-14), Samson (Quan án 13: 2-5) và Samuel (1 Sam 1: 1-20). Sứ thần chào mừng khiến người đọc liên tưởng các đoạn văn trong Isaia (66: 7-11), Zecharia (9: 9) và Zephania (3: 14-17). Những đoạn văn này nhắc nhở "người con gái Sion", cụ thể hơn, việc Israel đang vui mừng chờ đợi Chúa đến. Sự lựa chọn của bao trùm (eposkiasei) để diễn tả hành động của Chúa Thánh Thần trong việc trinh nữ thụ thai, nhắc nhở hành động thiên thần Cherubim bao trùm hòm bia thánh (Xuất hành 25: 20), sự hiện diện của Chúa bao trùm cung thánh (xuất hành 40: 35) và Thánh Thần bao phủ nước vào thời điểm sáng tạo (Sáng thế ký 1:2)
Trong trình thuật viếng bà thánh Isave, bài ca của Mẹ Maria (Magnificat) chiếu rọi bài ca của Hannah (1 Samuel 2: 1-10), mở rộng tầm nhìn cho thấy chính Mẹ là người nói thay cho tất cả mọi người nghèo khổ, bị áp bức đang mong chờ nước công bằng của Chúa ngự đến. Đúng như lời chào mừng của Isave, Mẹ đã nhận lời chúc phúc dành cho chính mình, khác với lời chúc phúc dành cho con (1: 42). Cũng chính trong Magnificat, Mẹ đã tiên đoán "từ nay muôn đời sẽ khen tôi có phúc" (1: 48). Văn bản cho mọi người thấy, ngay với nền tảng Thánh Kinh, Mẹ xứng đáng được tôn kích cách thích hợp, dù cho vai trò này không bao giờ tách rời ra khỏi vai trò của Mẹ là Mẹ đấng Mesia.
16. Trong câu truyện truyền tin, sứ thần gọi Mẹ là người được Chúa ưu đãi (tiếng Hy lạp là kecharitmene, nghĩa là người đang và tiếp tục lãnh nhận ân sủng) theo phương cách hiểu là, Mẹ được thánh hóa cách tiên thiên nhờ ân sủng của Chúa khi sắp đặt chương trình gọi Mẹ. Lời tuyên bố của sứ thần liên kết Chúa Giêsu "thánh thiện" và "con Thiên Chúa" với tiến trình nhập thể do Chúa Thánh Thần (1: 35). Sự thụ thai mà vẫn còn đồng trinh như thế nhắm đến vai trò làm con của Chúa cứu thế, đấng sẽ sinh ra từ cung lòng Mẹ Maria. Isave cho thấy trẻ sắp là Thiên Chúa: "Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm" (1: 43)
Qua những trình thuật trên, tiến trình Ba Ngôi trong các tác động thánh nhấn mạnh vào: sự nhập thể của Người Con đã khởi đầu, do Chúa Cha lựa chọn đức trinh nữ Maria và Chúa Thánh Thần đóng vai trò trung gian. Tương đồng, lời Fiat, Xin Vâng của Mẹ với lời kêu gọi của Chúa do sứ thần chuyển đến, đã được trả lời trong đức tin và trong tự do (1: 38).
17. Theo trình thuật Lu-ca về Chúa Giêsu giáng sinh, bài ca chúc tụng mục đồng dâng lên Chúa, song song với lời thờ lậy của các đạo sĩ dành cho hài nhi trong trình thuật theo Mát-thêu. Lại một lần nữa, những trình thuật này cho thấy trọng tâm của câu truyện giáng sinh "Họ trông thấy Maria và Giuse và hài nhi nằm trong máng cỏ" (Lu-ca 2: 16). Theo luật Môi sen, các trẻ trai sẽ chịu cắt bì và dâng trong đền thờ. Dịp này Simeon đã nói lời tiên tri đặc biệt về Mẹ của trẻ Kitô "lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn bà" (Lu-ca 2: 34-35). Từ điểm này, cuộc hành trình đức tin của Mẹ Maria dẫn đưa đến chân thập giá.
Thụ thai đồng trinh
18. Tin mừng thụ thai đồng trinh nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, (Mat-thêu 1: 20-23; Lu-ca 1: 34-35) đã tuyên bố giây phút khởi đầu thần thiêng của lịch sử nhân loại. Sự thụ thai đồng trinh xẩy ra trong sự thiếu vắng, nói rõ ra là sự thiếu vắng người cha nhân loại. Tuy nhiên, trên thực tế, sự thiếu vắng càng cho thấy dấu chỉ hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần. Niềm tin tưởng vào sự thụ thai đồng trinh, đã nằm trong truyền thống cổ thời, rồi thích ứng và phát triển cách độc lập trong Mát-thêu và Lu-ca (9). Với người tín hữu Kitô giáo, tin tưởng này là một bằng chứng hùng hồn về vai trò làm con của Chúa Kitô và của đời sống mới trong Thánh linh.
Thụ thai đồng trinh cũng biểu lộ một sự chào đời mới của mỗi Kitô hữu như dưỡng tử của Chúa. Mỗi người tái sinh (từ trên) do nước và Thánh Thần" (Gioan 3: 3-5). Dưới ánh sáng này, thụ thai đồng trinh, không thể được coi là một phép lạ lẻ loi, nhưng chính là một diễn đạt mạnh mẽ điều mà giáo hội tin tưởng về Thiên Chúa và về ơn cứu chuộc của mình.
Mẹ Maria và gia đình thật của Chúa Giêsu.
19. Sau những truyện về giáng sinh là một sự kiện lạ mà cả 3 phúc âm nhất lãm đều kể lại, liên quan đến câu hỏi về gia đình thật của Chúa Giêsu. Thánh Marcô cho chúng ta nghe "Mẹ và anh em của Người" (10) (Mk 3: 31) đến và đứng bên ngoài, muốn nói chuyện với Người (11). Chúa Giêsu, khi trả lời, đã tách mình ra khỏi gia đình thể xác tự nhiên: Thay vào đó, Người nói đến những người đang tụ họp chung quanh, đến gia đình "cánh chung" của Người, đến những "ai làm theo ý Chúa." (3: 35)
Với Marcô, gia đình tự nhiên của Chúa, kể cả Mẹ ruột của Người, hình như, vào giai đoạn này, chưa hiểu bản tính thực sự sứ vụ của Người. Đó cũng là trường hợp của các môn đệ (thí dụ 8: 33-35; 9: 30-33; 10: 35-40). Marcô còn tỏ cho thấy sự hiểu biết về gia đình thật của Người phát triển chậm và đầy đau đớn. Đức tin thực sự trong Chúa đã chỉ đạt được khi các môn đệ đối diện với thập giá và mồ trống.
20. Trong tin mừng Lu-ca, Luca đã không nhắc nhở đến điểm tương phản giữa hình thức tìm kiếm gia đình tự nhiên của Người và gia đình cánh chung (Lu-ca 8: 19-21). Về sau (11: 27-28) một phụ nữ trong đám đông nói về Mẹ Người đầy phúc lộc "Thật diễm phúc cho cung lòng đã hoài thai Người và vú đã cho Người bú" được sửa thành "người nghe lời Chúa và giữ lời Chúa thì còn có phúc hơn." Tuy nhiên, hình thức chúc lành này, như Lu-ca trình bầy, đương nhiên bao gồm cả Mẹ Maria, là đấng mà ngay từ đầu tiên đã để mọi biến cố trong cuộc đời mình xẩy ra theo lời Chúa (1:38)
21. Trong sách thứ nhì, Công Vụ các Tông Đồ, Lu-ca ghi nhận thời gian giữa lúc Chúa phục sinh lên trời và Chúa Thánh Thần hiện xuống, các môn đệ tụ họp tại Giêrusalem "cùng với các phụ nữ và Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và anh em của Người (TĐCV 1: 14). Đức Maria, người đã chấp nhận công tác của Thánh Thần Thiên Chúa vào lúc đấng Mesia giáng sinh (Lu-ca: 1: 35-38), nơi đây, đã hiện diện như một thành viên trong cộng đoàn môn đệ đang chờ đợi cầu nguyện Chúa Thánh Thần đến vào thời điểm giáo hội chào đời.
(còn tiếp...)
CHÚ THÍCH:
1. (Lüu ý: Các đoạn trong ngoặc đơn là chú giải do người dịch. Các chú giải không trong ngoặc đơn, nhưng đề chữ Số là nguyên bản) (Đây là các tín điều Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội và Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời.)
2. Theotokos là tiếng Hy Lạp có nghĩ a là người mang Thiên Chúa (God bearer)
3. (Chỗ này hơi khó dịch theo nguyên nghĩa. Đây là một kiểu xử dụng ngôn ngữ của chữ trong nguyên bản. ''Fiat'' nghĩa là Xin Vâng, lời Mẹ Maria trả lời sứ thần. ''Yes'' khi Chúa chấp nhận hoặc trả lời, cũng có nghĩa là Xin Vâng. Tuy nhiên, không thể dịch rằng Chúa Con nói lời Xin Vâng với nhân loại.)
4. (Một loại xử dụng ngôn ngữ tương tự như trên. Amen cũng có nghĩa là Xin Vâng. Chúng ta thưa Amen kết các lời nguyện, khi lên rước lễ..)
5. (Tức là Thánh Kinh)
6. Số 1 trong nguyên bản. Khi dùng cụm từ nghĩa bóng, chúng tôi muốn nhấn mạnh, bài đọc tân ước chấp nhận một vài điều nào đó trong thánh kinh (về người, nơi chốn và biến cố) ám chỉ hoặc gợi hình những điều khác hoặc để giúp suy tư các tiến trình trong đức tin, qua những phương cách hình dung (thí dụ A-dong là hình bóng của Chúa Kitô: Roma 5: 14; Isaia 7:14 hướng đến sự giáng sinh trinh trắng của Chúa Giêsu: Mat-thêu 1: 23). Loại nghĩa bóng đó nhằm nói lên ý nghĩa vượt khỏi nghĩa đen thông thường. Phương cách này cần hiểu trong sự hiệp nhất và liên tục của ơn mặc khải thánh.
7. (Các vị thời Phục Hưng nghĩa là Tin Lành.)
8. (Có ý muốn nói đến sách Cách ngôn)
9. Số 2. Dựa trên khuôn mẫu mang nặng đặc tính Do thái trong văn chương Mat-thêu và Lu-ca, rồi nếu so sánh nét tương đồng với thần thoại ngoại giáo hoặc theo sự tán dương cho rằng đồng trinh đáng tán dương hơn lập gia đình, để rồi từ đó giải thích nguồn gốc truyền thống câu truyện Mẹ thụ thai đồng trinh, thì không có căn bản. Cũng không có căn bản khi giải thích rằng thụ thai đồng trinh phát xuất từ việc đọc theo từng chữ bản văn Hy lạp của Isaia 7: 14 (LXX). Bởi vì văn mạch Lu-ca không theo lối hành văn đó. Hơn thế nữa, khi gợi ý ý tưởng thụ thai đồng trinh nhằm trả lời cho cáo buộc sinh hạ Chúa Giêsu thì cũng không chắc chắn.
10. (Chúng tôi dùng chữ Người khi nói về Chúa Giêsu.)
11. Số 3. Mặc dầu chữ anh em nghĩa là anh em ruột, tiếng Hy lạp adelphos, giống như chữ 'ah trong Do thái, mang ý nghĩa rộng hơn khi nói về anh em họ (thí dụ Sáng thế ký 29: 12 LXX) hoặc còn có nghĩa là anh em cùng cha khác mẹ (thí dụ Mac-cô 6: 17). Trong văn mạch của Mac-cô (3:31), cũng có thể hiểu là họ hàng, chứ không chỉ là anh em ruột. Mẹ Maria quả thực có một đại gia đình. Gioan 19: 25 nhắc đến chị của Mẹ, Luca nhắc đến chị họ của Mẹ là Isave (Luca 1:36). Trong giáo hội thời cổ xưa, đã có nhiều cách giải thích khác nhau về từ ngữ "anh em" Chúa Giêsu. Có cách nói là anh em ruột, có cách nói là anh em họ.
Lm. Anthony Đào Quang Chính