Chúng ta biết gì về Đức Giêsu? Phongxiô Philatô là ai? Ai đã viết bốn Phúc Âm? Ai là người Essene và Zelot? Về nhân vật lịch sử Đức Giêsu và môi trường Ngài đã sống, có rất nhiều câu hỏi mà thường chỉ nhận được những câu trả lời một phần hoặc bị ảnh hưởng bởi những lối kể chuyện. Với phần mới này, chúng tôi đã cố gắng trả lời một cách đơn giản những câu hỏi đó và nhiều câu hỏi khác.
Hầu như trên mỗi trang Tin Mừng, chúng ta đều gặp những nhân vật thắc mắc về Đức Giêsu: Ngài từ đâu đến, tại sao Ngài giảng dạy với quyền năng lớn lao như vậy, quyền phép của Ngài từ đâu mà có, tại sao Ngài làm phép lạ, tại sao Ngài dường như chống đối các truyền thống, tại sao các nhà chức trách lại loại bỏ Ngài.
Đó là những câu hỏi đã được đặt ra vào thời đó và tiếp tục được đặt ra qua các thế kỷ.
Bên cạnh những câu hỏi này, còn có những câu hỏi khác về Đức Giêsu lịch sử: Ngài nói tiếng nào, Ngài có mối liên hệ nào với Qumran, Phongxiô Philatô có thực sự tồn tại không, ai là người Essene và Zelot và họ đã đóng vai trò gì trong lịch sử Đức Giêsu?
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
DẪN NHẬP
Thánh Matthêu chép rằng: “Khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành xôn xao và người ta hỏi: ‘Người này là ai?’ ” (Mt 21, 10).
Đó là câu hỏi mà những chứng nhân của các việc làm của Thầy Nazarét ấy đã tự hỏi. Hầu như trên mỗi trang Tin Mừng, chúng ta đều gặp những nhân vật thắc mắc về Ngài: Ngài từ đâu đến, tại sao Ngài giảng dạy với quyền năng lớn lao như vậy, quyền phép Ngài từ đâu mà có, tại sao Ngài làm phép lạ, tại sao Ngài dường như chống đối các truyền thống, tại sao các nhà chức trách lại loại bỏ Ngài...
Đó là những câu hỏi đã được đặt ra vào thời đó và tiếp tục được đặt ra qua các thế kỷ.
Tín hữu và những người không tin, Kitô hữu tìm cách củng cố đức tin của mình và những kẻ tìm cớ để chế nhạo tôn giáo, những người cần dữ liệu kiểm chứng được để đến gần chân lý và những người bị nghi ngờ tấn công đã không ngừng tìm kiếm thông tin về sự tồn tại và nhân cách của Đức Giêsu Nazarét: Ngài có tồn tại không, chúng ta có biết chắc chắn Ngài đã làm và nói gì không, các sách Phúc Âm và các tác phẩm Kitô giáo có đáng tin cậy để biết thực tại không, liệu có thông tin xác thực về Đức Giêsu được lưu giữ trong các tác phẩm không phải Kitô giáo không, có thể kiểm chứng trong các nguồn văn học cổ xưa, độc lập với các nguồn Kitô giáo, tính xác thực của những gì các sách Phúc Âm thuật lại không, các văn bản Kitô giáo có phải là những tác phẩm có tính thiên vị, chỉ cho chúng ta một phiên bản phiến diện của những người muốn áp đặt ý tưởng của mình bằng vũ lực không?
Hai ngàn năm qua, những câu hỏi vẫn luôn như vậy và các câu trả lời thay đổi rất ít. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, một số khám phá khảo cổ học không chỉ khơi gợi sự quan tâm của các chuyên gia mà còn đánh thức sự tò mò của công chúng, bởi vì chúng dường như mang lại những dữ liệu mới làm cho các câu trả lời truyền thống trở nên lỗi thời.
Những khám phá về các cuộn giấy cói và da thuộc từ các hang động Qumran (trong sa mạc Giuđa), các bộ sưu tập bản thảo được tìm thấy ở Nag Hammadi hoặc ở những địa điểm khác của Ai Cập, các văn bản Kitô giáo được đọc lại dưới ánh sáng của những khám phá này, đã cung cấp thông tin trực tiếp hoặc gián tiếp về các nhóm người Do Thái và Kitô giáo cổ xưa bị gạt ra ngoài lề, một số sống cùng thời với Đức Giêsu, và đặt ra những vấn đề mà trước đây khó có thể hình dung được.
Nếu chúng ta thêm vào những tin tức về những phát hiện mới (trong một số trường hợp không phải là phát hiện mà chỉ là hàng giả) những diễn giải sai lầm về hình ảnh Đức Giêsu, các Tông Đồ hoặc Maria Mađalêna đôi khi xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng, hoặc trong một số cuốn sách, thì việc giải quyết những vấn đề này trở nên quan trọng.
Do sự thành công của những diễn giải này và sự chấp nhận thiếu phê phán đối với thông tin giả khoa học, một môi trường thiếu tin tưởng vào mọi di sản của quá khứ đã được tạo ra. Trong bối cảnh văn hóa như vậy, ranh giới giữa hư cấu văn học và thực tế bị lu mờ và những luận điểm đi ngược lại sự thật lịch sử đã hình thành.
Vì vậy, có một nhu cầu cấp thiết phải có dữ liệu lịch sử cần thiết để đưa ra những câu trả lời chính xác và đầy đủ.
Website này sẽ đưa lên mỗi ngày một câu hỏi và trả lời trích từ cuốn “50 preguntas sobre Jesús”, phiên bản sách điện tử, nguyên tác bằng tiếng Tây Ban Nha, được dịch sang tiếng Việt.
MỤC LỤC
1. Chúng ta biết gì về Đức Giêsu Nazarét?
2. Có những nguồn cổ xưa, không phải Kitô giáo, về Đức Giêsu không?
3. Tình hình hiện tại của nghiên cứu lịch sử về Đức Giêsu
4. Đức Giêsu sinh ra ở Bêlem hay Nazarét?
5. Đức Giêsu được sinh ra như thế nào?
6. Sự trinh khiết của Đức Maria có ý nghĩa gì?
7. Ngôi sao Bêlem
8. Tại sao chúng ta mừng Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12?
9. Cuộc thảm sát các trẻ thơ vô tội
10. Đức Giêsu có anh chị em không?
11. Thánh Giuse có kết hôn lần thứ hai không?
12. Đức Giêsu nói tiếng nào?
13. Đức Giêsu độc thân, đã kết hôn hay góa vợ?
14. Đức Giêsu có phải là môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả không?
15. Thánh Gioan Tẩy Giả có ảnh hưởng gì đến Đức Giêsu?
16. Người Pharisêu, Sacđốc, Essene, Zelot, họ là ai?
17. Các bản thảo Qumran là gì?
18. Đức Giêsu có thái độ nào đối với các việc đền tội?
19. Đức Giêsu có quan điểm chính trị nào?
20. Mối quan hệ của Đức Giêsu với Đế chế Rôma là gì?
21. Mười hai Tông Đồ là ai?
22. Những người phụ nữ theo Đức Giêsu có vai trò gì?
23. Maria Mađalêna là ai?
24. Mối quan hệ giữa Đức Giêsu và Maria Mađalêna là gì?
25. Mối quan hệ giữa Phêrô và Maria Mađalêna là gì?
26. Các phép lạ của Đức Giêsu được giải thích như thế nào?
27. Đức Giêsu có thực sự muốn thành lập một Giáo Hội không?
28. Điều gì đã xảy ra trong Bữa Tiệc Ly?
29. Chén Thánh là gì? Nó có liên hệ gì với Chén Thánh?
30. Công nghị Tối cao là gì?
31. Caipha là ai?
32. Phongxiô Philatô là ai?
33. Cái chết của Đức Giêsu đã diễn ra như thế nào?
34. Giuse Arimathea là ai?
35. Sự phục sinh của Đức Giêsu được giải thích như thế nào?
36. Sứ điệp Kitô giáo về cơ bản là gì?
37. Thánh Phaolô là ai? Ngài đã truyền đạt giáo huấn của Đức Giêsu như thế nào?
38. Các sách Phúc Âm thuộc quy điển và ngụy thư là gì?
39. Có những khác biệt nào giữa các sách Phúc Âm quy điển và ngụy thư?
40. Các sách Phúc Âm đã được viết như thế nào?
41. Các sách Phúc Âm ngụy thư nói gì?
42. Người Ngộ Đạo là ai?
43. Thư viện Nag Hammadi là gì?
44. Phúc Âm Philíp nói về điều gì?
45. “Phúc Âm Maria (Mađalêna)” nói gì?
46. Phúc Âm Giuđa nói gì?
47. Constantinus là ai?
48. Sắc lệnh Milan là gì?
49. Điều gì đã xảy ra tại Công đồng Nicêa?
50. Các Thánh Sử là ai?
51. Có thể thân xác Đức Giêsu đã bị đánh cắp không?
52. Có thể phủ nhận sự tồn tại lịch sử của Đức Giêsu không?
G. Võ Tá Hoàng

Chúng ta biết gì về Đức Giêsu Nazarét?

50 CÂU HỎI VỀ CHÚA GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
3. Việc nghiên cứu nhân vật Giêsu lịch sử hiện nay như thế nào
Kể từ thế kỷ XIX, khi các phương pháp khoa học lịch sử hiện đại bắt đầu được áp dụng vào khảo cứu các văn bản Tin Mừng, việc nghiên cứu về nhân vật Giêsu lịch sử đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Sau khi vượt qua những định kiến duy lý của giai đoạn nghiên cứu ban đầu và các phương pháp phê bình quá mức vốn thống trị phần lớn thế kỷ XX, tình hình hiện tại trở nên tích cực và cởi mở hơn nhiều, và chủ nghĩa hoài nghi phổ biến vào giữa thế kỷ trước đã bị đẩy lùi.
Ngày nay, chúng ta hiểu rõ hơn nhiều về bối cảnh lịch sử và văn học nơi Chúa Giêsu đã sống và nơi các Phúc âm được viết ra. Sự quen dần với văn chương liên chuyển (intertestamentaria), tức là các tác phẩm của thế giới Do Thái cùng thời với Chúa Giêsu và các tác giả Phúc âm (các chú giải sách Kinh thánh, các bản dịch tiếng Aram, các văn bản Qumran, văn chương Do Thái giáo Rabbi, v.v.), đã cho phép minh họa, xác minh và hiểu sâu sắc hơn các trình thuật Phúc âm và hình ảnh của Chúa Giêsu trong Do Thái giáo thời bấy giờ.
Các nguồn khác đến từ thế giới Hy Lạp – Rôma đã cung cấp kiến thức tốt hơn về những ảnh hưởng của Hy Lạp hóa ở Galilêa nơi Chúa Giêsu đã sống, và do đó cho biết rõ về sự giao tiếp của vùng đất Palestine này với các mô hình văn hóa của thế giới Hy Lạp. Hơn nữa, các bằng chứng từ các văn bản ngụy thư, rất có thể ra đời sau các Phúc âm chính thống, và các văn bản Kitô giáo và Do Thái giáo khác từ thế kỷ II đã giúp phân tích các truyền thống mà các cuốn sách này bắt nguồn và do đó giúp hiểu rõ hơn các xác quyết có trong các Phúc âm. Các phát hiện khảo cổ học mới và gần đây cũng đã đóng góp vào nghiên cứu về nhân vật Giêsu, trong đó đặc biệt thú vị là những phát hiện từ các cuộc khai quật đang được tiến hành ở Galilêa, rất hữu ích để tìm hiểu về vùng đất Palestine này, nơi mà vào thế kỷ I đã bị Hy Lạp hóa (hellenizzata) mạnh mẽ.
Cuối cùng, việc áp dụng các phương pháp chú giải mới (kiểu văn học, quy chuẩn, v.v.) đã cho phép hiểu sâu sắc hơn các nguồn, điều này đã góp phần vượt qua những hạn chế và sự cứng nhắc của phương pháp lịch sử được sử dụng trong các thời kỳ trước.
Do đó, kiến thức lịch sử của chúng ta về Chúa Giêsu ngày càng vững chắc hơn. Tóm lại, các Phúc âm đáng tin cậy, và dưới con mắt của một nhà sử học khách quan, người ta có thể khám phá trong đó một tập hợp lớn các cử chỉ, lời nói, hành động của Chúa Giêsu, qua đó Ngài đã thể hiện sự độc đáo của bản thân và sứ mệnh của mình.
G. Võ Tá Hoàng
chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù
50 câu hỏi về Đức Giêsu: 4. Đức Giêsu sinh ra ở Bêlem hay Nazarét?

50 CÂU HỎI VỀ ĐỨC GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
4. Đức Giêsu sinh ra ở Bêlem hay Nazarét?
Thánh Matthêu nói rằng Đức Giêsu sinh ra ở “Bêlem xứ Giuđa vào thời vua Hêrôđê” (x. Mt 2, 1; 2,5.6.8.16) và Thánh Luca cũng vậy (Lc 2,4.15). Trong Phúc âm thứ tư có một tham chiếu gián tiếp, trong bối cảnh một cuộc thảo luận về danh tính của Đức Giêsu: “Khi nghe những lời đó, một số người trong dân chúng nói: ‘Người này đích thực là tiên tri!’ Kẻ khác rằng: "Ông này là Đấng Kitô." Nhưng có kẻ lại nói: "Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê sao? Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavít và từ Bêlem, làng của vua Đavít sao?” (Ga 7, 40-42).
Bằng cách sử dụng phép nói mỉa mai, một phương pháp cũng được sử dụng trong những dịp khác (x. Ga 3,12; 4,12; 6,42; 9, 40-41), vị thánh sử thứ tư chứng minh rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia và Ngài sinh ra ở Bêlem, bằng cách sử dụng chính những lời khẳng định của những kẻ đối nghịch với Ngài.
Trong hơn 1900 năm, đây là một dữ liệu kiến thức không bao giờ bị đặt vấn đề. Thay vào đó, một số học giả, vào thế kỷ XIX, nhấn mạnh rằng trong toàn bộ Tân Ước, Đức Giêsu được biết đến là “người Nazarét” (người đến từ Nazarét). Họ cho rằng việc nhắc đến Bêlem là phát minh của Matthêu và Luca, với ý định khoác cho Ngài hình ảnh của một trong những đặc điểm của Đấng Mêsia tương lai: là hậu duệ của Đavít và sinh ra ở Bêlem. Lập luận này tự nó không chứng minh điều gì. Vào thế kỷ thứ nhất, người ta nói rất nhiều điều về Đấng Mêsia tương lai mà không tìm thấy ở Đức Giêsu, và dường như việc sinh ra ở Bêlem không được coi là một bằng chứng quyết định. Thay vào đó, lý luận ngược lại mới đúng: các Thánh sử biết rằng Đức Giêsu lớn lên ở Nazarét và sinh ra ở Bêlem, đã khám phá trong các văn bản Cựu Ước rằng đây là những hoàn cảnh được gán cho Đấng Mêsia sẽ đến.
Tất cả các chứng từ của truyền thống đều xác nhận các dữ kiện Phúc âm. Justin, sinh ra ở Palestine khoảng năm 100 sau Công nguyên, khẳng định rằng Đức Giêsu sinh ra trong một hang động gần Bêlem (Đối thoại với Tryphon 78). Origen xác nhận điều đó (Chống lại Celsus 1, 51). Các Phúc âm ngụy thư cũng ghi nhận dữ liệu tương tự (Tiền Phúc âm Giacôbê 20; Phúc âm Ả Rập về thời thơ ấu 2; Ngụy-Matthêu 13).
Do đó, theo ý kiến chung của các học giả, có thể khẳng định rằng thời điểm hiện tại không có lý do nào đáng chú ý có quan điểm khác với những gì các sách Phúc âm nói và những gì đã được truyền lại cho chúng ta: Đức Giêsu sinh ra ở Bêlem xứ Giuđa vào thời vua Hêrôđê.
Về địa điểm cụ thể nơi Đức Giêsu sinh ra ở Bêlem, Luca thuật lại rằng: Đức Maria, sau khi sinh hài nhi, đã “đặt con trong máng cỏ, vì không có chỗ cho họ trong nhà trọ” (Lc 2,7). “Máng cỏ” là dấu hiệu cho thấy nơi Đức Giêsu sinh ra có nuôi súc vật. Luca thêm rằng hài nhi trong máng cỏ sẽ là dấu hiệu được ban cho các mục đồng để nhận ra rằng Đấng Cứu Thế đã được sinh ra ở đó (Lc 2,12.16). Từ Hy Lạp mà Thánh sử dùng là katályma: nơi ở rộng rãi của các ngôi nhà, có thể dùng làm phòng khách hoặc phòng dành cho khách. Trong Tân Ước, thuật từ này được dùng hai lần nữa (Lc 22,11 và Mc 14,14) để chỉ căn phòng nơi Đức Giêsu cử hành Bữa Tiệc Ly với các môn đệ của Ngài. Có lẽ, vị Thánh sử muốn nhấn mạnh bằng lời của mình rằng nơi đó không cho phép giữ được sự riêng tư.
G. Võ Tá Hoàng
Chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù
50 câu hỏi về Đức Giêsu: 5. Đức Giêsu được sinh ra như thế nào?

50 CÂU HỎI VỀ ĐỨC GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
5. Đức Giêsu được sinh ra như thế nào?
Đức Maria thụ thai Đức Giêsu không có sự can dự của người nam. Điều này được khẳng định rõ ràng trong hai chương đầu của các sách Phúc âm Thánh Matthêu và Luca. Sứ thần nói với Thánh Giuse: “Người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20); và khi Đức Maria hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”, Sứ thần trả lời: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà...” (Lc 1, 34-35). Mặt khác, việc Đức Giêsu trên Thập giá đã trao phó mẹ Ngài cho Thánh Gioan cho thấy rằng Đức Trinh Nữ không có người con nào khác. (Về việc các sách Phúc âm có nhắc đến “anh em của Đức Giêsu”, xem câu hỏi số 10 “Đức Giêsu có anh em không?”).
Tính siêu nhiên trong việc Đức Giêsu ra đời đã được truyền lại từ rất sớm, một cách nhất quán và Giáo hội luôn bảo vệ điều đó.
Thánh Ignatiô thành Antiôkia, trong Thư gửi tín hữu Êphêsô 19,1, viết khoảng năm 100, xác nhận điểm này khi viết rằng: “Thủ lãnh thế gian này đã không nhận ra được sự đồng trinh của Maria, việc sinh hạ của người và cái chết của Chúa, ba mầu nhiệm vĩ đại đã được hoàn tất trong thinh lặng của Thiên Chúa”.
Cuối thế kỷ II, Thánh Irênê viết rằng việc sinh hạ không gây đau đớn (Demonstratio Evangelica, 54) và Clêmentê Alexandria khẳng định rằng sự ra đời của Đức Giêsu là cuộc sinh nở trinh khiết (Stromata 7,16). Trong một bản văn của thế kỷ IV được gán cho Thánh Grêgôriô Thaumaturgo, viết rõ rằng : “Khi sinh Chúa Kitô, vẫn giữ gìn cung dạ vô nhiễm và trinh khiết, để bản chất chưa từng có của cuộc sinh hạ này trở nên dấu chỉ cho chúng ta về một mầu nhiệm cao cả” (JB Pitra, Analecta Sacra, 4, Greg Press, Franborough 1966, tr. 391).
Các Phúc âm ngụy thư cổ xưa nhất như: Những khúc nhạc của Salômôn (Khúc nhạc 19), Sự lên trời của Isaia (chương 14), Tiền Phúc âm Giacôbê (chương 20-21) và Ngụy-Matthêu (chương 13) đều thuật lại rằng việc sinh hạ Đức Giêsu có tính kỳ diệu. Mặc dù giọng điệu đôi khi phóng đại và lập dị, các bản văn ngụy thư này vẫn lưu giữ những truyền thống bình dân trùng khớp với các chứng từ uyên bác và chính thống đã được nêu trên.
Tất cả các tác phẩm này phản ánh một truyền thống đức tin đã được lưu giữ trong Giáo huấn của Giáo hội và khẳng định rằng Đức Maria đồng trinh trước khi sinh, trong khi sinh và sau khi sinh: “Đức Maria ‘trọn đời đồng trinh’. “Việc đào sâu đức tin về Đức Maria đồng trinh mà làm mẹ, đã đưa Hội thánh đến chỗ tuyên xưng Đức Maria thật sự và trọn đời đồng trinh, cả trong khi sinh hạ Con Thiên Chúa làm người. Thật vậy, việc sinh hạ Đức Kitô “không làm suy giảm nhưng thánh hiến sự trinh khiết vẹn toàn” của Mẹ. Phụng vụ của Hội thánh tôn vinh Mẹ là Aeiparthenos, “Đấng trọn đời đồng trinh” (GLHTCG, số 499).
G. Võ Tá Hoàng
Chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù
50 câu hỏi về Đức Giêsu: 6. Sự đồng trinh của Đức Maria có ý nghĩa gì?

50 CÂU HỎI VỀ ĐỨC GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
6. Sự đồng trinh của Đức Maria có ý nghĩa gì?
Việc thụ thai Đức Giêsu mà vẫn đồng trinh phải được hiểu như là công trình của quyền năng Thiên Chúa, “vì đối với Người, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37), điều này vượt quá mọi sự hiểu biết của con người.
Việc này hoàn toàn không liên quan gì đến các miêu tả thần thoại ngoại giáo, trong đó một vị thần, dưới hình dạng con người, kết hợp với một người phụ nữ. Trong việc thụ thai Đức Giêsu, Thiên Chúa thực hiện bằng hành động tương tự như việc tạo dựng.
Điều này thật sự không thể chấp nhận được đối với người không tin, cũng như đối với người Do Thái và người ngoại giáo, đã thêu dệt nên những câu chuyện thô kệch về sự ra đời của Đức Giêsu; một trong những câu chuyện đó là gán Đức Giêsu cho một binh lính Rôma tên là Pantheras. Nhân vật này thực chất chỉ là một hình tượng văn chương được dựng lên để chế nhạo các Kitô hữu. Tuy nhiên, đứng từ góc độ lịch sử và ngữ văn, cái tên Pantheras (hay Pandera) rất đáng để chú ý, vì trong bản nhại của câu chuyện ấy, đó là sự xuyên tạc của một từ Hy Lạp là parthénos (trong tiếng Hy Lạp: đồng trinh).
Ở các vùng phía đông của Đế quốc Rôma, tiếng Hy Lạp được sử dụng phổ biến, và khi người ta nghe các Kitô hữu nói về Đức Giêsu là “Con của Trinh Nữ” (huios tou parthenou), những kẻ muốn chế giễu họ đã gọi Người là “con của Pantheras”. Câu chuyện giễu cợt này là một bằng chứng cho thấy các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã tuyên xưng Đức Maria Đồng Trinh, mặc dù điều ấy có vẻ là điều không thể đối với con người.
Việc thụ thai đồng trinh là dấu hiệu cho thấy Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, Người không có cha theo huyết nhục, nhưng Người đồng thời là người thật, sinh bởi người phụ nữ (Gl 4,4). Việc thụ thai Đức Giêsu mà vẫn đồng trinh, tái khẳng định sáng kiến tuyệt đối của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại để khai mở ơn cứu độ; đồng thời, điều này cũng cho thấy ơn cứu độ ấy được hòa nhập một cách tự nhiên trong dòng chảy lịch sử loài người, như được minh chứng qua gia phả của Đức Giêsu được thuật lại trong các sách Tin Mừng.
Đức Giêsu, được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần và không có sự can dự của người nam, chính là Ađam mới khai mở một cuộc tạo dựng mới, mà trong đó con người mới, được Người cứu chuộc, được thuộc về (x. 1 Cr 15,47; Ga 3,3-4).
Hơn nữa, Đức trinh nữ Maria biểu lộ đức tin không chút nghi ngờ và sự phó thác trọn vẹn của Mẹ Đức Giêsu theo ý muốn Thiên Chúa. Người ta cũng nói rằng, nhờ đức tin này mà Đức Maria đã thụ thai Đức Kitô trước tiên trong tâm trí mình, rồi mới đến trong lòng dạ mình; và rằng “Đức Maria được chúc phúc vì đã đón nhận Đức Kitô nhờ đức tin, hơn là vì đã cưu mang thân xác của Đức Kitô trong lòng” (Thánh Augustinô, De sancta virginitate, 3). Đức Maria, vừa là Trinh Nữ vừa là Mẹ, là hình ảnh và là hiện thân hoàn hảo nhất của Hội Thánh.
G. Võ Tá Hoàng
Chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù
50 câu hỏi về Đức Giêsu: 7. Ngôi sao Bêlem

50 CÂU HỎI VỀ ĐỨC GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
7. Ngôi sao Bêlem
Hai chương đầu của Tin Mừng Mátthêu và Luca được gọi là “Tin Mừng Thời Thơ Ấu” vì chúng cho chúng ta biết những sự kiện liên quan đến việc ra đời và thời thơ ấu của Đức Giêsu. Qua thánh Mátthêu, chúng ta biết rằng một số “Đạo sĩ” đã đến Giêrusalem và hỏi: “Vua dân Do Thái mới sinh ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện và chúng tôi đến để thờ lạy Người” (Mt 2,2).
Các trình thuật này có văn phong hơi khác so với phần còn lại của các Tin Mừng. Chúng đầy rẫy những ám chỉ đến Cựu Ước và mỗi sự kiện được thuật lại đều mang tính biểu tượng cao. Theo nghĩa này, tính lịch sử của các trình thuật ấy không thể được kiểm chứng theo cùng một cách với các sự kiện khác được kể trong các Tin Mừng. Hơn nữa, chúng có những khác biệt: nơi thánh Luca, thời thơ ấu của Đức Giêsu thay cho phần giới thiệu về Tin Mừng của ngài, còn nơi thánh Mátthêu, đó là một bản tóm tắt của toàn bộ sứ điệp cuốn sách.
Trong đoạn văn về các Đạo sĩ (Mt 2, 1-12) thánh Matthêu thuật lại cách một số người ngoại giáo, tức là những người không thuộc dân Israel, đã khám phá ra mặc khải của Thiên Chúa nhờ những nghiên cứu và kiến thức nhân loại của riêng họ (qua các vì sao). Tuy nhiên, họ đạt đến sự viên mãn của chân lý nhờ Kinh Thánh của Israel.
Vào thời điểm các Tin Mừng được biên soạn, một niềm tin phổ biến ngay cả trong văn hóa ngoại giáo (Svetonius, Cuộc đời các hoàng đế, Augustus, 94; Cicero, Về bói toán, 1, 23, 47; v.v.) và trong văn hóa Do Thái (Flavius Josephus, Cuộc chiến tranh Do Thái, 5, 310-312; 6, 289), đó là sự ra đời của một nhân vật quan trọng hoặc một sự kiện có tầm ảnh hưởng lớn được báo trước bằng các điềm lạ trên trời. Hơn nữa, trong Cựu Ước, trong sách Dân Số, có ghi lại lời sấm của Balaam: “Tôi nhìn thấy Người, nhưng không phải bây giờ, tôi chiêm ngắm Người, nhưng không gần: một ngôi sao mọc lên từ Giacóp và một vương trượng xuất hiện từ Israel…” (Ds 24,17). Đoạn Kinh thánh này được hiểu như là lời loan báo về Đấng Cứu Thế. Do đó, để hiểu đúng lý do tại sao ngôi sao được nhắc đến, cần phải ghi nhớ những tham chiếu này: mối liên hệ giữa các điềm lạ trên trời và các sự kiện quan trọng, và lời tiên tri chứa đựng trong sách Dân Số.
Các nhà chú giải kinh thánh hiện đại đã đặt câu hỏi về hiện tượng tự nhiên nào đã được con người thời đó hiểu như là điều phi thường. Có ba giả thuyết chính đã được đưa ra:
1) Kepler (thế kỷ XVII) đưa ra giả thuyết về một siêu tân tinh, tức là một ngôi sao mới rất xa phát nổ, khiến nó trở nên cực kỳ sáng trong vài tuần và có thể nhìn thấy được từ Trái Đất.
2) Sao chổi, một vì sao di chuyển theo quỹ đạo elip đều đặn quanh Mặt Trời: ở phần xa nhất của quỹ đạo, chúng không nhìn thấy được, nhưng khi chúng gần hơn thì trở nên dễ quan sát. Giả thuyết này cũng trùng khớp với những gì thánh Mátthêu đã ghi lại, mặc dù các lần xuất hiện của sao chổi mà chúng ta biết và có thể nhìn thấy từ Trái Đất không trùng khớp với ngày sinh của Đức Giêsu.
3) Một giả thuyết khác là các nhà thông thái Ba Tư đã nhìn thấy sự kết hợp giữa Sao Mộc và Sao Thổ. Kepler cũng nhận thấy hiện tượng định kỳ này và nếu các tính toán của chúng ta chính xác, có thể một sự kết hợp như vậy đã xảy ra vào năm thứ 6 hoặc 7 trước công nguyên, tức là vào khoảng thời điểm có nhiều khả năng Đức Giêsu ra đời.
G. Võ Tá Hoàng
Chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù
50 câu hỏi về Đức Giêsu: 8. Tại sao chúng ta mừng lễ Giáng Sinh vào ngày 25 tháng 12?

50 CÂU HỎI VỀ ĐỨC GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
8. Tại sao chúng ta mừng lễ Giáng Sinh vào ngày 25 tháng 12?
Có vẻ như các Kitô hữu sơ khai không mừng sinh nhật (x. chẳng hạn Origien, PG XII, 495). Thay vào đó, họ cử hành dies natalis, ngày bước vào quê hương vĩnh cửu của những người đã qua đời (x. Cuộc tử đạo của Polycarp, 18, 3), như là sự tham gia vào công trình cứu độ do Đức Giêsu thực hiện, Đấng đã chiến thắng sự chết bằng cuộc khổ nạn vinh hiển của Người. Họ ghi lại chính xác ngày Đức Giêsu được tôn vinh, ngày 14/15 tháng Nisan (tháng thứ bảy theo lịch Do Thái, tháng mùa xuân tương ứng với tháng Ba - Tư, khi cử hành Lễ Vượt Qua), nhưng không phải ghi lại ngày sinh của Người, bởi các trình thuật Tin Mừng không lưu truyền lại điều gì.
“Năm phụng vụ của Hội Thánh trước hết không hình thành dựa trên sự ra đời của Đức Kitô, mà bắt đầu từ niềm tin vào sự phục sinh của Người. Vì lý do này, nghi lễ cổ xưa nhất của Kitô giáo không phải là Giáng Sinh mà là lễ Phục Sinh. Thực ra, chỉ có sự phục sinh của Chúa mới đặt nền tảng cho đức tin Kitô giáo và do đó đã khai sinh ra Hội Thánh” (J. Ratzinger, Những hình ảnh của Hy vọng, 1999, tr. 7).
Chúng ta không có thông tin về ngày sinh của Đức Giêsu, mãi đến thế kỷ thứ III: “Người đầu tiên khẳng định chắc chắn rằng Đức Giêsu sinh ngày 25 tháng 12 là thánh Hippolytus thành Rôma trong bài bình luận về sách Đaniel, được viết vào khoảng năm 204” (J. Ratzinger, op.cit. tr. 7). Tham chiếu trực tiếp và rõ ràng nhất về ngày lễ này được tìm thấy trong lịch phụng vụ Filocalus năm 354 (MGH, IX, I, 13, 196) với dòng chữ: “VIII kal. Ian. natus Christus in Betleem Iudeae” (“ngày 25 tháng 12 Đức Kitô sinh tại Bêlem xứ Giuđêa”). Từ thế kỷ IV, chấp thuận ngày này là ngày sinh của Đức Kitô đã trở nên phổ biến trong truyền thống phương Tây. Ngược lại, ở phương Đông, ngày 6 tháng 1 chiếm ưu thế.
Nhưng tại sao lại là ngày 25 tháng 12? Một cách giải thích khá phổ biến cho rằng từ năm 274 sau Công nguyên, ngày 25 của tháng 12 ở Rôma người ta cử hành dies natalis Solis invicti, chiến thắng của ánh sáng trên đêm dài nhất trong năm. Giả thuyết này dựa vào phụng vụ lễ Giáng Sinh, trong đó phối hợp giữa sự ra đời của Đức Giêsu Kitô với những biểu thức Kinh Thánh như “mặt trời công chính” (Ml 3,20) và “ánh sáng thế gian” (Ga 1,4tt). Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy mọi việc thực sự diễn ra như vậy, và mặt khác, khó có thể hình dung rằng các Kitô hữu thời đó muốn điều chỉnh các lễ hội ngoại giáo vào lịch phụng vụ, đặc biệt sau khi trải qua một cuộc bách hại. Tuy nhiên, có thể theo thời gian, lễ hội Kitô giáo đã dần thay thế lễ hội ngoại giáo.
Tuy nhiên, cũng có những cách giải thích khác có cơ sở hơn. Cách giải thích đầu tiên liên kết ngày sinh của Gioan Tẩy giả với sự ra đời của Đức Giêsu: Luca kể rằng Dacaria, cha của Gioan Tẩy giả, là tư tế thuộc nhóm Abia. Ông đang thực hiện chức vụ của mình trong đền thờ khi thiên thần Gabriel báo tin về sự ra đời của con trai ông (Lc 1,5-13).
Theo lịch mặt trời Qumran, các phiên của gia đình Abia phục vụ trong Đền Thờ diễn ra hai lần trong năm: từ ngày 8 đến ngày 14 của tháng thứ 3 và từ ngày 24 đến ngày 30 của tháng thứ 8. Truyền thống phương Đông cho rằng Gioan sinh ngày 24 tháng 6, đặt ngày Dacaria phục vụ trong đền thờ vào phiên thứ hai: từ ngày 24 đến ngày 30 của tháng thứ 8. Thêm nữa, thánh Luca ghi ngày thiên thần truyền tin cho Đức Maria là tháng thứ 6 sau khi bà Êlisabet thụ thai Gioan (Lc 1,26). Phụng vụ phương Đông và phương Tây đồng ý ấn định ngày truyền tin cho Đức Maria là ngày 31 tháng Adar, tức là ngày 25 tháng 3 của theo lịch hiện nay. Thật vậy, ngày nay Giáo hội vẫn cử hành lễ truyền tin và nhập thể của Chúa Giêsu vào ngày 25 tháng Ba. Do đó, ngày sinh phải được đặt 9 tháng sau đó, chính là ngày 25 tháng 12 (Nguồn: culturacattolica.it).
Từ trình thuật của thánh Luca, trong đó hai lần sinh hạ, của Gioan và Đức Giêsu, được liên kết với nhau, có thể suy ra rằng Luca “đã ngầm xác định ngày 25 tháng 12 như là ngày sinh của Đức Giêsu ngay trong Tin Mừng của ngài. Hơn nữa, vào ngày đó, người ta cử hành lễ cung hiến đền thờ, do Giuđa Macabêô thiết lập vào năm 164 trước Công nguyên, và do đó, ngày sinh của Đức Giêsu cũng đồng thời mang ý nghĩa biểu tượng rằng, nơi Đấng xuất hiện như ánh sáng của Thiên Chúa giữa đêm đông, việc cung hiến Đền Thờ đã được hoàn tất cách trọn vẹn, và biến cố Thiên Chúa ngự đến trần gian đã thật sự được thực hiện”(J. Ratzinger, op. cit. tr. 8).
Cách giải thích khác liên kết ngày nhập thể, chín tháng trước khi sinh với ngày Người chịu tử nạn: “Chúa chúng ta được thụ thai vào ngày 8 trước tháng Tư [25 tháng 3] cũng là ngày Chúa chịu khổ nạn” (B. Botte, Nguồn gốc của Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh, Louvain 1932, dòng 230-233). Giáo hội Đông phương Kitô giáo, dựa vào các lịch khác, cử hành cuộc khổ nạn và nhập thể vào ngày 6 tháng 4, ngày trùng khớp với việc cử hành lễ Giáng Sinh được mừng vào ngày 6 tháng Giêng.
Tư duy cổ điển và trung cổ, vốn ngưỡng mộ sự hoàn hảo của vũ trụ như một toàn thể hài hòa, đã nhìn thấy trong mối liên hệ thời gian giữa cuộc khổ nạn và nhập thể, tính thống nhất trong các can thiệp của Thiên Chúa. Khái niệm này có nguồn gốc từ tư tưởng Do Thái, nơi sự tạo dựng và ơn cứu độ có mối liên hệ với tháng Nisan. Trong các thế kỷ, nghệ thuật Kitô giáo đã thể hiện những ý tưởng tương tự này khi miêu tả lễ Truyền Tin với Hài Nhi Giêsu giáng trần cùng với một cây thập giá. Vì thế, có thể các Kitô hữu đã liên kết ơn cứu độ do Đức Kitô thực hiện với chính giây phút Người được thụ thai, và như thế, ngày sinh của Người cũng được xác định theo mạch suy tư này. Do đó, có thể khẳng định rằng: “Yếu tố quyết định chính là mối tương quan giữa công trình sáng tạo và thập giá, giữa công trình sáng tạo và việc thụ thai Đức Kitô”. (J. Ratzinger, Dẫn vào tinh thần phụng vụ).
G. Võ Tá Hoàng
Chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù
50 câu hỏi về Đức Giêsu: 9. Cuộc thảm sát các trẻ thơ vô tội

50 CÂU HỎI VỀ ĐỨC GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
9. Cuộc thảm sát các trẻ thơ vô tội
Cuộc tàn sát các trẻ thơ thuộc về Tin mừng thời thơ ấu của thánh Mátthêu, cũng như trình thuật về ngôi sao và các nhà chiêm tinh. Các nhà chiêm tinh đã hỏi về Vua dân Do Thái (Mt 2,1) và Hêrôđê, người tự cho mình là vị vua hợp pháp của dân Do Thái, đã dùng mưu gian để xem ai là người có khả năng soán ngôi, và dặn họ phải báo tin cho ông khi trở về. Khi nhận ra rằng những người này đã đi đường khác, ông “đùng đùng nổi giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh” (Mt 2,16).
Đoạn văn gợi lại một sự kiện khác trong Cựu Ước: ngay cả Pharaô cũng đã ra lệnh giết tất cả các trẻ sơ sinh của người Do Thái, nhưng Môsê, người sau này sẽ giải thoát dân tộc mình, đã được cứu thoát (x. Xh 1,8-2,10). Đối với Mátthêu, qua cuộc tử đạo của các hài nhi này, một lời sấm của Giêrêmia đã được ứng nghiệm (Gr 31,15). Dân Israel bị lưu đày ở Babylon, nhưng từ đó Chúa đã giải thoát họ, và với một cuộc xuất hành mới, Người đã đưa họ trở về đất hứa, ban cho họ một giao ước mới (Gr 31,31). Do đó, ý nghĩa đoạn Tin mừng của Mátthêu rất rõ ràng: Dù có nỗ lực đến đâu, các thế lực trần gian cũng không thể cản ngăn được các kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Trong bối cảnh trên, cần phải xem xét tính lịch sử của sự kiện này, mà chúng ta chỉ biết được qua trình thuật của Mátthêu. Trong logic của nghiên cứu lịch sử, quy tắc “testis unus testis nullus” – chỉ một nhân chứng duy nhất thì không đủ. Tuy nhiên, thật dễ hiểu khi nghĩ rằng cuộc thảm sát các hài nhi tại Bêlem, một địa phương nhỏ, không đủ quy mô để được ghi vào biên niên sử. Điều chắc chắn là sự độc ác và thiếu lương tâm của Hêrôđê cũng được Flavius Josephus chứng thực: ông đã dìm chết người em rể Aristobulus khi người này trở nên nổi tiếng; ông đã ám sát nhạc phụ của mình là Arcanus II, một người em rể khác là Costobar và vợ ông là Mariamne; ông còn ra lệnh giết hai người con ruột là Alexandrê và Aristobulo, và năm ngày trước khi qua đời, ông giết thêm một người con nữa là Antipatêr; Cuối cùng, ông còn ra lệnh xử tử các thân hào trong vương quốc trước khi ông chết, để cho dù dân Do Thái có khóc vì ông hay không, thì cũng phải khóc than cho cái chết của Hêrôđê (x. Cổ sử Do Thái, chương 15, 16 và 17).
G. Võ Tá Hoàng
chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù
50 câu hỏi về Đức Giêsu : 10. Đức Giêsu có anh chị em không?

50 CÂU HỎI VỀ ĐỨC GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
10. Đức Giêsu có anh chị em không?
Đức Trinh Nữ Maria đã thụ thai Đức Giêsu mà không có sự can dự của người nam (Mt 1,25) và không có con nào khác, điều này cũng được suy ra từ việc Đức Giêsu trên thập giá đã trao Mẹ của mình cho Gioan (Ga 19,27). Đây là điều đã được truyền lại cho chúng ta qua truyền thống của Hội Thánh, đã tuyên xưng Đức Maria là aeiparthenos, “trọn đời đồng trinh”. Đây là một chân lý đức tin, phù hợp với các bản văn Tin Mừng. Những cách diễn đạt được tìm thấy trong các sách Tin Mừng, có vẻ như mâu thuẫn với chân lý này, cần phải được hiểu cho đúng cách:
a) Trong Tin mừng nói rằng Đức Giêsu là con đầu lòng của Đức Maria (Lc 2,6), điều này có thể hàm ý rằng Người là anh cả trong số nhiều anh em. Nhưng từ “con đầu lòng” là cách gọi hợp pháp để chỉ người con đầu tiên (Xh 19,29; 34,19, v.v.) và không nhất thiết ngụ ý rằng Người có những anh em khác sau đó, như được minh chứng rõ ràng qua một bản khắc nổi tiếng của người Do Thái, trong đó nói về một người mẹ đã qua đời khi sinh “người con đầu lòng” của mình.
b) Câu trong Tin mừng Mátthêu 1,25: “ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai”, theo nghĩa đen có thể dịch là “và ông đã không biết bà [theo nghĩa Kinh Thánh là: chung sống vợ chồng] cho đến khi bà sinh con”. Liên từ Hy Lạp heos, “cho đến khi”, dường như ngụ ý rằng sau đó “ông đã biết bà”. Thực ra, liên từ này tự nó nói đến điều đã xảy ra cho đến thời điểm đó, trong trường hợp ở đây là sự sinh hạ Đức Giêsu bởi một trinh nữ, chứ không đưa ra khẳng định gì về điều xảy ra sau này. Chúng ta tìm thấy chính liên từ này trong Gioan 9,18, nói rằng những người Pharisêu không tin phép lạ chữa lành cho người mù từ khi mới sinh “cho đến khi” họ gọi cha mẹ của anh ta. Nhưng ngay cả sau đó họ cũng không tin.
c) Trong các bản văn Tin Mừng có những chỗ ám chỉ rõ ràng đến một số “anh em và chị em” của Đức Giêsu (Mc 3,32; 6,3 và các bản song song). Thậm chí có bốn cái tên được nhắc đến: “Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa” (Mc 6,3). Trong số bốn người này, Giacôbê sẽ đóng một vai trò quan trọng trong Giáo hội sơ khai, với tư cách là người đứng đầu Giáo hội Giêrusalem, và sẽ được biết đến chính xác là “Giacôbê, anh em của Chúa” (Gl 1,19; x. 1 Cr 15,7). Mặt khác, cần phải lưu ý rằng trong tiếng Do Thái và Aram không có từ chuyên biệt để phân biệt các mức độ quan hệ họ hàng, do đó tất cả những người thân đều được gọi là “anh em”. Từ “anh em” sử dụng trong Tin Mừng được dịch từ tiếng Hy Lạp là adelphos (những bản văn phản ánh thế giới Semit chứ không phải Hy Lạp), có nghĩa rất rộng, nó đi từ anh em ruột thịt đến anh em cùng cha khác mẹ, anh em rể, chú bác, hàng xóm, môn đệ, v.v. Trong sách Sáng thế 13,8, nói rằng Ápraham và Lót là anh em, nhưng thực ra từ các dữ liệu khác mà chúng ta biết được thì họ là chú cháu. Trong Marcô 6,17, nói rằng Hêrôđia đã kết hôn với Hêrôđê, “anh em của Philipphê”, nhưng thực ra họ là anh em cùng cha khác mẹ, vì họ có mẹ khác nhau. Trong Gioan 19,25, chúng ta đọc thấy rằng “đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cleopát, cùng với bà Maria Mácđala”, điều này có nghĩa là hai bà có tên Maria hẳn là bà con chứ không phải chị em ruột, vì họ có cùng tên riêng.
Đúng là trong tiếng Hy Lạp có từ anepsios để chỉ về anh em họ, nhưng trong Tân Ước (Cl 4,10) nó chỉ xuất hiện một lần. Để khẳng định rằng, trong trường hợp họ là anh em họ chứ không phải anh em ruột, thì các tác giả Tin Mừng đã sử dụng từ này hoặc đã để lại một số manh mối, là một lập luận dựa trên giả định tiên nghiệm. Viện dẫn chứng từ của Hégésippô, được Eusêbiô thành Cêsarê truyền lại, trong đó ông nói đến “Giacôbê, anh em của Chúa” (Hist. Eccl. 2,23) và “Simôn, anh em họ của Chúa” (Hist. Eccl. 4,22) không phải là một lập luận mang tính quyết định. Trường hợp thứ nhất (“anh em của Chúa”) có thể được hiểu như một danh xưng mà qua đó người ta biết đến ông Giacôbê, chứ không nhằm xác định rõ mức độ quan hệ huyết thống.Gói kỳ nghỉ gia đình
Trừ khi ngữ cảnh làm rõ, ta không thể biết chính xác ý nghĩa của từ “anh em” cũng như mức độ quan hệ huyết thống và họ hàng. Nếu Đức Giêsu được gán cho là có “anh chị em”, thì mặt khác, chính Ngài là người duy nhất được gọi là “con của bà Maria” (Mc 6,3). Người là con trai duy nhất của Đức Maria. Chính truyền thống của Hội Thánh (chứ không phải là những phân tích ngôn ngữ học tưởng chừng như hợp lý hơn, hay những chứng từ rời rạc cho dù rất cổ xưa) mới là người giải thích đúng đắn những bản văn này. Chính truyền thống này đã giải thích rằng trong Tân Ước, cụm từ “anh em” của Đức Giêsu phải được hiểu là “họ hàng thân thuộc”, theo nghĩa của từ Hy Lạp. Mọi cách giải thích khác tuy có thể xảy ra, nhưng đều mang tính tùy tiện.
G. Võ Tá Hoàng
chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù
50 câu hỏi về Đức Giêsu: 11. Thánh Giuse có kết hôn lần thứ hai không?

50 CÂU HỎI VỀ ĐỨC GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
11. Thánh Giuse có kết hôn lần thứ hai không?
Theo Tin Mừng Mátthêu, khi Đức Maria thụ thai Chúa Giêsu cách trinh khiết, thì Mẹ đã đính hôn với Thánh Giuse, dù hai người chưa sống chung với nhau (Mt 1,18). Trong truyền thống Do Thái, trước khi diễn ra lễ cưới chính thức, thường có một giai đoạn đính hôn, nhưng đây là một cam kết bền vững và ràng buộc đến nỗi hai người dù đang hứa hôn có thể được gọi là vợ chồng, và sự ràng buộc đó chỉ có thể tháo gỡ bằng cách ly dị.
Từ chính bản văn Tin mừng của Mátthêu, chúng ta có thể suy ra rằng sau khi sứ thần tiết lộ cho Thánh Giuse biết rằng Đức Maria đã thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần (Mt 1,20), thì hai người đã kết hôn và bắt đầu chung sống với nhau. Những sự kiện tiếp theo xác nhận điều này: cuộc trốn sang Ai Cập và trở về, rồi việc định cư lâu dài tại Nadarét (Mt 2,13–23), cũng như sự kiện hành hương lên Giêrusalem khi Chúa Giêsu còn niên thiếu và đối thoại với các kinh sư trong đền thờ (Lc 2,41–45). Hơn nữa, khi thuật lại biến cố Truyền Tin, thánh Luca giới thiệu Đức Maria là “một trinh nữ, đã đính hôn với một người thuộc nhà Đavít, tên là Giuse”. [bản dịch của Hội đồng Giám mục Ý năm 2008 dùng từ ‘đã đính hôn’, nhưng trong nguyên ngữ Hy Lạp là ‘đã kết hôn’ – chú thích của người dịch]. Như vậy, theo Mátthêu và Luca, Thánh Giuse là phu quân của Đức Maria. Đây là truyền thống được các sách Tin Mừng ghi lại và được Giáo hội đồng nhận qua nhiều thế kỷ.
Nói như thế để thấy rằng, những giả thuyết cho rằng Thánh Giuse đã từng lập gia đình trước đó, hoặc ngài là một người góa vợ và đã cao niên, không thực sự kết hôn với Đức Maria mà chỉ nhận chăm sóc Maria như một trinh nữ, “trong sự bảo trợ”, dường như không có nền tảng lịch sử xác đáng nào và chúng phát sinh nhằm giải thích cho từ “anh em” của Chúa Giêsu mà các sách Tin mừng nhắc đến, là con của Thánh Giuse trong một cuộc hôn nhân trước đó.
Những ám chỉ đầu tiên về các giả thuyết này được tìm thấy trong tác phẩm ngụy thư “Tiền Phúc âm của Giacôbê”, có từ thế kỷ thứ hai. Tác phẩm này kể rằng Maria đã sống trong đền thờ từ lúc ba tuổi cho đến khoảng mười hai tuổi. Khi ấy, các tư tế quyết định chọn cho Maria một người bảo trợ. Họ triệu tập tất cả những người đàn ông góa vợ trong vùng, và trong một biến cố kỳ diệu, một con chim bồ câu bay ra từ gậy của Thánh Giuse, từ đó các tư tế đã trao Đức Maria cho Thánh Giuse.
Theo truyền thuyết này, khi sứ thần hiện ra với Thánh Giuse trong giấc mộng, sứ thần không nói: “Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20), mà lại nói: “Đừng ngại vì thiếu nữ này. Quả thật, điều xảy ra ở nơi cô ấy là do Chúa Thánh Thần” (chương XIV, 2). Chính từ bản văn ngụy thư này mà Thánh Êpiphanô có lẽ đã chịu ảnh hưởng, khi ngài chủ trương rằng Thánh Giuse đã 80 tuổi và đã có sáu người con (những người này, khi Chúa Giêsu sinh ra thì họ phải ở độ tuổi từ 40 đến 60, và khi Chúa bắt đầu rao giảng công khai thì họ đã khoảng từ 70 đến 90 tuổi, do đó rất ít khả năng họ là những người bạn đồng hành trong sứ vụ của Người).
Trong các tác phẩm ngụy thư sau này, như Ngụy-Mátthêu, cuốn nói về sự Ra đời của Maria, hay Lịch sử ông Giuse thợ mộc, người ta vẫn cho rằng Giuse và Maria đã kết hôn, nhưng nhìn chung, Thánh Giuse thường được trình bày như một người bảo trợ của Đức Maria,
Theo lòng đạo đức bình dân và trong tranh ảnh, hình ảnh Thánh Giuse già nua khi cưới Đức Maria đã trở nên nổi bật.
Tóm lại, có thể khẳng định rằng không có dữ liệu lịch sử nào cho phép khẳng định rằng Thánh Giuse đã từng kết hôn, là một người góa vợ hay đã già.
Ngược lại, dựa trên các dữ liệu Tin Mừng, ta có thể suy đoán rằng ngài là một người đàn ông trẻ tuổi và chỉ kết hôn một lần.
G. Võ Tá Hoàng
chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù
50 câu hỏi về Đức Giêsu: 12. Đức Giêsu nói ngôn ngữ nào?

50 CÂU HỎI VỀ ĐỨC GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
12. Đức Giêsu nói ngôn ngữ nào?
Vào thế kỷ I, tại vùng đất nơi Chúa Giêsu sinh sống, người ta sử dụng bốn ngôn ngữ: Aram, Do Thái, Hy Lạp và tiếng Latinh.
Ngôn ngữ chính thức, đồng thời cũng ít được sử dụng nhất là tiếng Latinh. Ngôn ngữ này hầu như chỉ được các quan chức Rôma dùng để trao đổi với nhau, và chỉ một số người có học thức mới biết. Có vẻ không có khả năng Đức Giêsu đã học tiếng Latinh và sử dụng nó trong đời sống hằng ngày hoặc trong việc rao giảng.
Đối với tiếng Hy Lạp, không có gì đáng ngạc nhiên nếu thỉnh thoàng Đức Giêsu đã sử dụng nó, vì nhiều nông dân và thợ thủ công ở Galilê đều biết tiếng Hy Lạp, ít là những kiến thức cơ bản cần thiết cho các hoạt động thương mại đơn giản hoặc để giao tiếp với cư dân thành phố, là những người đa số mang văn hóa Hy Lạp. Ngôn ngữ này cũng được sử dụng ở Giuđêa: ước tính có từ 8 đến 15 phần trăm dân số Giêrusalem nói tiếng Hy Lạp. Tuy vậy, không thể biết chắc chắn liệu Đức Giêsu có sử dụng tiếng Hy Lạp hay không, và không thể xác định điều đó một cách chắc chắn từ bất kỳ bản văn nào, nhưng cũng không thể loại trừ. Chẳng hạn, có khả năng Chúa Giêsu đã nói chuyện với Philatô bằng ngôn ngữ này.
Những lời ám chỉ lặp đi lặp lại trong các sách Tin Mừng về việc Đức Giêsu rao giảng trong các hội đường và những cuộc đối thoại của Người với những người Pharisêu về các văn bản Kinh Thánh khiến người ta tin rằng rất có khả năng Ngài biết và đã sử dụng tiếng Do Thái.
Tuy nhiên, mặc dù Đức Giêsu biết và đôi khi sử dụng tiếng Do Thái, nhưng thật hợp lý khi nghĩ rằng trong các cuộc nói chuyện hằng ngày và trong việc rao giảng, Người thường sử dụng tiếng Aram, vốn là ngôn ngữ thông dụng trong đời sống thường nhật của người Do Thái ở Galilê. Thật ra, trong một số trường hợp, bản văn Hy Lạp của các sách Tin Mừng vẫn giữ nguyên một số từ hoặc cụm từ gốc tiếng Aram được Đức Giêsu thốt ra: Talita qum (Mc 5,41), Corbàn (Mc 7,11), Effetha (Mc 7,34), Geenna (Mc 9,43), Abbà (Mc 14,36), Eloi, Eloi, lema sabactani? (Mc 15,34), hoặc từ nơi những người đối thoại với Người: Rabbuni (Mc 10,51).
Các nghiên cứu về nguồn gốc ngôn ngữ của các sách Tin Mừng dẫn đến kết luận rằng những lời được ghi lại ở đây đầu tiên được thốt ra bằng ngôn ngữ Sêmít: tiếng Do Thái, khả năng nhiều hơn là tiếng Aram.
Hơn nữa, chính cấu trúc đặc thù của tiếng Hy Lạp được sử dụng trong các sách Tin Mừng cũng cho thấy cấu trúc ngữ pháp của tiếng Aram. Điều này có thể nhận ra qua việc một số lời được các sách Tin Mừng gán cho Chúa Giêsu trở nên đặc biệt mạnh mẽ về mặt diễn đạt khi được dịch trở lại tiếng Aram; và cũng có những từ ngữ được dùng với ý nghĩa khác với nghĩa thông thường trong tiếng Hy Lạp, bắt nguồn từ cách sử dụng theo kiểu Sêmít.
Cuối cùng, trong một số trường hợp, khi dịch các sách Tin Mừng sang tiếng Sêmít, người ta nhận thấy một số cách chơi chữ mà trong bản gốc tiếng Hy Lạp vẫn còn ẩn giấu.
G. Võ Tá Hoàng
chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù

50 CÂU HỎI VỀ ĐỨC GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
13. Đức Giêsu độc thân, đã kết hôn hay góa vợ?
Từ những dữ liệu mà bốn sách Tin mừng quy điển cung cấp, chúng ta biết rằng Đức Giêsu làm thợ mộc ở Nazarét (Mc 6,3) và khi khoảng ba mươi tuổi, Ngài bắt đầu sứ vụ công khai (Lc 3,23). Chúng ta biết rằng bên cạnh nhóm môn đệ còn có một số phụ nữ đi theo Ngài (Lc 8,2-3) và những người khác mà Ngài có mối quan hệ bạn bè (Lc 10, 38-42).
Dù không bao giờ nói rõ liệu Đức Giêsu sống độc thân, đã kết hôn hay góa vợ, nhưng các tác giả Tin Mừng có nhắc đến gia đình của Ngài, mẹ của Ngài, “anh chị em” của Ngài, nhưng tuyệt nhiên không hề nói đến “vợ của Ngài”. Sự im lặng này rất có ý nghĩa. Đức Giêsu được biết đến là “con của ông Giuse” (Lc 3,23; 4,22; Ga 1,45; 6,42) và, khi dân làng Nazarét ngạc nhiên trước lời giảng dạy của Ngài, họ thốt lên: “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mc 6,3).
Không có văn bản nào nhắc đến việc Đức Giêsu có vợ. Truyền thống chưa bao giờ đề cập đến khả năng Ngài đã lập gia đình. Không đề cập đến không phải vì truyền thống xem thực tại hôn nhân là điều hạ thấp hình ảnh Đức Giêsu (Đấng đã phục hồi phẩm giá nguyên thủy cho hôn nhân, x. Mt 19, 1-12) hoặc là điều không phù hợp với niềm tin vào thiên tính của Đức Kitô, nhưng đơn giản là vì truyền thống đã trung thành với thực tại lịch sử.
Nếu Giáo hội có ý che giấu những khía cạnh có thể gây thiệt hại cho đức tin của mình, thì tại sao lại phải lưu truyền sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, người đã làm phép rửa để tha tội? Nếu Giáo hội sơ khai muốn che giấu việc Đức Giêsu đã lập gia đình, thì tại sao lại không che giấu sự hiện diện rõ ràng của những người phụ nữ có mối quan hệ thân thiết với Ngài?
Mặc dù thiếu các yếu tố lịch sử, nhưng gần đây đã có những lập luận được đưa ra nhằm chứng minh rằng Đức Giêsu đã kết hôn. Để củng cố cho luận điểm này người ta dựa vào tập quán và giáo lý chung của các Rabbi ở thế kỷ thứ nhất: độc thân là điều không thể chấp nhận được đối với các Rabbi thời đó và nếu Đức Giêsu là một Rabbi thì Ngài hẳn phải kết hôn. Thực ra, ngay cả trong giới Rabbi cũng có những ngoại lệ, như Rabbi Simeon ben Azzai, là người khi bị buộc tội vì lựa chọn độc thân, đã nói: “Linh hồn tôi say mê Lề Luật. Người khác có thể tiếp tục để duy trì thế giới” (Talmud Babylon, b. Yeb. 63 b). Một số người khác còn khẳng định rằng Đức Giêsu, giống như bất kỳ người Do Thái đạo đức nào, đã kết hôn ở tuổi hai mươi, rồi sau đó đã bỏ vợ con khi bắt đầu sứ mạng của mình.
Có thể trả lời các lý luận này bằng hai cách:
1. Có những bằng chứng cho thấy việc sống độc thân đã được thực hành trong Do Thái giáo vào thế kỷ thứ nhất. Flavius Josephus (Chiến tranh Do Thái 2.8.2 và 120-21; Cổ sử Do Thái 18.1.5 và 18-20), và Pliny Cả (Lịch sử tự nhiên 5.73, 1-3) cho chúng ta biết rằng trong số các Esseni (một giáo phái Do Thái ở Palestine, phổ biến từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên đến năm 70 sau Công nguyên) đã sống độc thân. Và chúng ta biết chắc chắn rằng một số Esseni của cộng đồng Qumran, bên Biển Chết, đã sống độc thân. Philo (trong cuốn De Vita contemplativa - Về đời sống chiêm niệm) ghi nhận rằng “Therapeutae”, một nhóm tu sĩ Ai Cập, đã sống độc thân. Ngoài ra, trong truyền thống của Israel, một số nhân vật nổi tiếng như Giêrêmia đã sống độc thân. Ngay cả ông Môsê, theo truyền thống Rabbi, đã sống tiết dục để duy trì mối tương quan thân thiết với Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả cũng không kết hôn. Vì vậy, dù việc sống độc thân không phổ biến, nhưng đó không phải là điều chưa từng có tiền lệ.
2. Ngay cả khi không ai sống độc thân ở Israel, chúng ta cũng không thể nhất thiết suy ra rằng Đức Giêsu đã kết hôn. Như đã nói, các dữ liệu cho thấy rằng Ngài muốn sống độc thân và có nhiều lý do khiến lựa chọn này phù hợp, có thể chấp nhận được, đó là vì việc sống độc thân nhấn mạnh sự độc đáo của Đức Giêsu đối với Do Thái giáo đương thời và phù hợp hơn với sứ mạng của Người. Đức Giêsu không coi nhẹ giá trị của hôn nhân, cũng không đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải sống độc thân, nhưng với lựa chọn này, Ngài đặt Nước Thiên Chúa (x. Mt 19,12) và tình yêu dành cho Thiên Chúa, mà chính Ngài là hiện thân, lên trên mọi sự khác.
Dù trong bất cứ tình huống nào, không có văn bản nào, dù quy điển hay ngụy thư, khẳng định rằng Đức Giêsu đã kết hôn.
G. Võ Tá Hoàng
chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù
50 câu hỏi về Đức Giêsu: 14. Đức Giêsu có phải là môn đệ của Gioan Tẩy Giả không?

50 CÂU HỎI VỀ ĐỨC GIÊSU
50 câu hỏi này xuất phát từ ý định của một nhóm chuyên gia thuộc Khoa Thần học của Đại học Navarra (các Giáo sư Juan Chapa, Francisco Varo và những người khác) đã biên soạn một số tài liệu được xuất bản trong cuốn “50 preguntas sobre Jesús” do nhà xuất bản Rialp Madrid.
14. Đức Giêsu có phải là môn đệ của Gioan Tẩy Giả không?
Vì mối quan hệ giữa Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu rất trực tiếp và mật thiết, nên người ta tự hỏi liệu có mối quan hệ thầy-trò giữa hai người không. Để có câu trả lời thích hợp cho câu hỏi này, cần phải tập trung vào ba khía cạnh đang được các học giả tranh luận: các môn đệ của Gioan, tầm quan trọng của phép rửa Chúa Giêsu tại sông Giođan và những lời khen ngợi dành cho Gioan Tẩy Giả.
1. Các môn đệ của Gioan. Các sách Tin Mừng thường xuyên nhắc đến họ (Mc 2, 18; Mt 11, 2) và chúng ta biết rằng một số người trong số họ sau đó đã theo Đức Giêsu (Ga 1,35-37). Họ không phải là những người bạn đồng hành ngẫu nhiên: họ chia sẻ cuộc sống (Mc 2,18) và những ý tưởng (Ga 3,22) của Gioan. Flavius Josephus phân biệt hai loại môn đệ: một số người vui thích lắng nghe giáo huấn của Gioan về nhân đức, công lý, v.v., và chịu phép rửa; những người khác “tụ tập quanh Gioan vì họ rất phấn khởi khi nghe Gioan nói” (Cổ sử Do Thái 18,116-117). Tin Mừng thứ tư ghi lại rằng một số môn đệ của Gioan tỏ ra ghen tị với hoạt động của Đức Giêsu (Ga 3,25-27), từ đó có thể suy ra rằng họ không coi Ngài là một trong số họ.
2. Phép rửa của Chúa Giêsu. Các nhà chuyên môn không nghi ngờ tính lịch sử của sự kiện này, một phần là vì việc đưa nó vào các sách Tin Mừng đã gây ra một số khó khăn: trước hết là khả năng giải thích về sự kiện này như một minh chứng cho tính ưu việt của Gioan Tẩy Giả đối với Đấng chịu phép rửa; thứ hai, vì đây là phép rửa sám hối, người ta có thể nghĩ rằng Đức Giêsu có ý thức về việc mình là người tội lỗi. Các sách Tin Mừng Nhất Lãm cho thấy rõ trong các trình thuật của mình rằng Gioan thừa nhận sự phục tùng của mình, ban đầu Gioan đã do dự không muốn làm phép rửa cho Đức Giêsu (Mt 3,13-17). Sau đó, tiếng nói từ trời mạc khải phẩm giá thần linh của Đức Giêsu (Mc 1,8-11) và Tin Mừng thứ tư, tuy không thuật lại biến cố này, nhưng cho biết rằng Gioan Tẩy Giả đã làm chứng vì đã thấy chim bồ câu đậu xuống trên Đức Giêsu (Ga 1,29-34) và về thân phận thấp kém của chính mình (Ga 3,30). Từ những điều đã nói ở trên, có thể suy ra rằng việc được Gioan làm phép rửa không có nghĩa là trở thành môn đệ của ông.
3. Những lời khen ngợi của Đức Giêsu. Có hai câu trong đó Đức Giêsu bày tỏ sự kính trọng đối với Gioan Tẩy Giả, nhưng không ngụ ý rằng Ngài là môn đệ của ông. Một câu được cả Mátthêu (Mt 11,11) và Luca (7,28) thuật lại đó là: “trong số những người sinh bởi phụ nữ, không có ai lớn hơn Gioan”. Câu còn lại nằm trong Tin Mừng Marcô (9,12-13) và áp dụng lời tiên tri Ml 3,23-24 cho Gioan Tẩy Giả: “Trước hết ông Êlia đến trước để chỉnh đốn mọi sự. (...) Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Êlia đã đến, và họ đã xử với ông theo ý họ muốn, như Sách Thánh đã chép về ông".
Không còn nghi ngờ gì nữa, con người của Gioan, phép rửa (x. Mt 21,13-27) và sứ điệp của Gioan đã hiện diện rất nhiều trong cuộc đời Đức Giêsu. Tuy nhiên, Ngài đã đi theo một con đường hoàn toàn khác với Gioan Tẩy Giả: khác trong cách cư xử của Ngài, vì Ngài đã đi khắp cả nước, kể cả thủ đô Giêrusalem, và giảng dạy ngay trong Đền Thờ; khác trong sứ điệp của Ngài, vì Ngài đã rao giảng về vương quốc cứu độ phổ quát; và khác trong những gì Ngài dạy cho các môn đệ của mình. Ngài hướng dẫn họ về giới luật yêu thương vượt lên trên các quy tắc pháp lý và các thực hành khổ hạnh. Nhưng điều làm Ngài khác biệt nhiều so với Gioan, chính là việc Ngài đã mở ra chân trời cứu độ cho tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc và mọi thời đại.
Tóm lại, ngay cả trong giả thuyết ít khả năng xảy ra và hoàn toàn không minh chứng được rằng Đức Giêsu từng có thời gian sống cùng với các môn đệ của Gioan Tẩy Giả, thì không thể khẳng định rằng Ngài đã chịu ảnh hưởng quyết định từ Gioan. Thay vì là môn đệ của Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu là Đấng Mêsia và là Đấng Cứu Độ đã được vị ngôn sứ cuối cùng và vĩ đại nhất là Gioan Tẩy Giả loan báo.
G. Võ Tá Hoàng
chuyển ngữ từ 50 domande su Gesù
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn