16/12 – CHÂN PHƯỚC HONORATUS KOZMINSKI (1825-1916)
Ngài sinh tại Biala Podlaska (Siedlce, Ba Lan), học kiến trúc tại Trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi ngài gần 16 tuổi thì mồ côi cha. Bị nghi ngờ tham gia nổi loạn, ngài bị tù từ tháng 4-1846 tới tháng 3-1847. Năm 1848, ngài vào Dòng Phanxicô. Sau 4 năm, ngài được thụ phong linh mục. Năm 1855, ngài giúp Chân phước Maria Angela Truszkowska thành lập Dòng nữ Felicia.
Ngài làm người gác cổng ở tu viện Warsaw năm 1860. Ngài tận tụy rao giảng, linh hướng và giải tội, đồng thời tích cực làm việc với Dòng Ba Phanxicô.
Cuộc nổi dậy chóng Nga hoàng Alexander III năm 1864 thất bại dẫn đến cuộc đàn áp các nhà dòng ở Ba Lan. Các tu sĩ Dòng Phanxicô bị trục xuất khỏi Warsaw và phải đến sống tại Zakroczym, tại đây ngài tiếp tục sứ vụ và bắt đầu thành lập 26 dòng nam và nữ. Các tu sĩ khấn nhưng không mặc áo dòng và không sống chung, họ hoạt động như các tu hội đời ngày nay. Có 17 nhóm vẫn còn là hội dòng ngày nay.
Các tài liệu viết của ngài gồm 42 cuốn bài giảng, 21 cuốn tập hợp các thư, có tới 52 tác phẩm về thần học khổ hạnh (ascetical theology), về lòng sùng kính Đức Mẹ Maria, về lịch sử, về mục vụ – không kể nhiều tài liệu về các hội dòng ngài đã thành lập.
Năm 1906, nhiều giám mục muốn tái tổ chức các nhóm này dưới quyền mình, nhưng Chân phước Honoratus cương quyết giữ độc lập, nhưng ngài vẫn thúc giục các hội dòng vâng lời giáo hội.
Một người đương thời nói: “Ngài luôn bước đi với Chúa.” Năm 1895, ngài được bổ nhiệm làm Tổng đại diện Dòng Phanxicô ở Ba Lan. Ngài tới Nowe Miasto, rồi qua đời và an táng tại đây. Ngài được ĐGH Gioan Phaolô II tuyên chân phước năm 1988.

Ngài sinh ở Biala Podlaska (Ba Lan), và học về kiến trúc tại trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi Wenceslau lên 16 tuổi thì mồ côi cha. Vì bị tình nghi là có tham gia trong nhóm phản loạn, ngài bị bắt và bị cầm tù từ tháng Tư 1846 đến tháng Ba năm sau. Năm 1848, ngài gia nhập dòng Phanxicô, và lấy tên Honoratus Kosminski. Năm 1855 ngài giúp Chân Phước Mary Angela Truszkowska thành lập dòng Nữ Tu Felix.
Năm 1860, Cha Honoratus làm giám đốc một tu viện ở Warsaw. Ngài dành mọi nỗ lực trong việc rao giảng, hướng dẫn tinh thần các đệ tử sinh và giải tội. Ngoài ra ngài còn làm việc không biết mệt cho dòng Ba Phanxicô.
Cuộc cách mạng năm 1864, nhằm lật đổ Nga hoàng Alexander III đã bất thành, đưa đến việc đàn áp các dòng tu ở Ba Lan. Các tu sĩ Capuchin bị đẩy ra khỏi Warsaw, và buộc phải sống ở Zakroczym, là nơi Cha Honoratus tiếp tục sứ vụ của ngài, và thành lập 16 tu hội nam cũng như nữ, mà các thành viên không phải mặc áo tu sĩ ,cũng như không phải sống trong khuôn viên của tu hội. Họ sinh hoạt giống như các tổ chức dòng ba bây giờ. Cho đến nay, vẫn còn mười bảy tu hội ấy hoạt động.
Các văn bản của Cha Honoratus thì vô số kể: 42 tập bài giảng, 21 tập thư tín và 52 ấn bản thần học về sự khổ hạnh, sự sùng kính Ðức Maria, về lịch sử, về mục vụ – chưa kể các thư từ ngài viết cho các tu hội mà ngài sáng lập.
Vào năm 1906, một vài giám mục tìm cách đưa các tu hội ấy dưới thẩm quyền của họ; Cha Honoratus chống lại quyết định đó để bảo vệ sự độc lập của các tu hội, và ngài bị cách chức giám đốc vào năm 1908. Sau đó, ngài khuyên các thành viên của các tu hội hãy vâng phục quyết định của Giáo Hội, dù tương lai có ra sao.
Một người đương thời với ngài cho biết, Cha Honoratus “Luôn luôn bước đi trong con đường của Thiên Chúa.” Vào năm 1895, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Ðại Diện cho các tu sĩ Capuchin ở Ba Lan.
Ngài được phong Chân Phước năm 1988.
Chân Phước Honoratus đã làm việc hăng say để phục vụ Giáo Hội, một phần qua việc thiết lập các tu hội, nhằm đáp ứng với hoàn cảnh đặc biệt của Ba Lan thời bấy giờ. Ngài đã có thể rút lui một cách cay đắng và oán hờn, khi đường hướng các tu hội ấy bị tước đoạt khỏi tầm tay; nhưng ngài đã coi đó là những “niềm vui tuyệt đối”. Ngài khuyên các thành viên hãy sẵn sàng và vui vẻ vâng phục, đem khả năng của mình để phục vụ Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô.
Lời Trích
Khi Giáo Hội lấy đi quyền điều khiển các tu hội của ngài, và thay đổi đường hướng các tu hội ấy, Chân Phước Honoratus viết: “Ðấng Ðại Diện Ðức Kitô đã cho chúng ta biết thánh ý của Thiên Chúa, và tôi lãnh nhận mệnh lệnh này với đức tin. Anh chị em thân mến, hãy nhớ rằng đây là cơ hội để anh chị em chứng tỏ sự tuân phục một cách quả cảm đối với Giáo Hội”.
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn