Con sư tử đang rống lên vì đau đớn. Con thú hoang dã này đã dẫm phải một bụi nhỏ gai nhọn. Nó bị đau nhưng không có cách nào để tự thoát ra. Nó cầm tìm một ai đó giúp. Cuối cùng, nó nhìn thấy một chú bé chăn cừu. Con sư tử nói với cậu bé: “Đừng sợ. Nhưng xin vui lòng giúp tôi”. Cậu bé nhìn thấy nỗi đau đớn trong mắt con sư tử. Cậu đã kéo bụi gai ra cho nó.
Nhiều năm sau đó, chú bé chăn cừu bị nhà vua bắt vì một tội mà cậu không làm. Nhà vua tuyên bố cậu ta sẽ bị chết. Vua thả con sư tử ra để giết chú bé. Nhưng bất thình lình con sư tử đứng lại. Nó tiến lại gần cậu bé. Nhẹ nhàng đặt bàn chân lên người cậu. Đây là con sư tử mà cậu bé đã giúp những năm trước. Nhà vua ngạc nhiên vì câu chuyện này. Và ngài đã phóng thích cho cả hai, chú bé chăn cừu và con sư tử.
Câu chuyện cổ này được viết bởi nhà văn Hy Lạp Aseop. Câu chuyện cho thấy chú bé chăn cừu đã được cứu mạng bởi một việc làm tốt trong quá khứ. Bài viết hôm nay cũng cho thấy khoa học hiện đại cũng ủng hộ tư tưởng xa xưa đó – làm việc tốt thì tốt cho ta.
Người ta đã có một thời gian dài cho rằng việc tốt chỉ tốt cho người nhận. Thí dụ, khi một người cung cấp thức ăn cho một người đói, người đói là người được ơn. Bụng họ trống rỗng một thời gian dài, nay nhận được quà tặng là thực phẩm. Tuy nhiên, các nhà khoa học gần đây bắt đầu nghiên cứu tính hiệu quả của những hành động tốt đối với người thực hiện. Những gì họ khám phá là, làm những việc tốt thực ra có lợi cho người thực hiện chúng. Những hành động từ thiện có thể cải thiện sức khỏe, giúp cho con người đạt được những mục tiêu của mình và ngay cả việc kéo dài thêm vài năm tuổi thọ trong cuộc sống.
Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy có sự liên quan giữa làm việc tốt và sống thọ. Đầu tiên ta thấy sự liên quan giữa hai điều này trong một nghiên cứu về tuổi tác. Bắt đầu từ năm 1956, các nhà khoa học khảo sát trên một nhóm các bà mẹ đã lập gia đình 30 năm. Họ nghĩ rằng phụ nữ nhiều con nhất sẽ chết sớm. Nhưng điều đã khám phá làm họ ngạc nhiên. Số lượng con cái không ảnh hưởng đến người phụ nữ trong vấn đề này. Giàu nghèo cũng không. Giáo dục cũng không. Giai cấp cũng không. Điều tác động đến phụ nữ là - họ có tình nguyện dành thời gian để giúp đỡ người khác hay không. Phụ nữ càng tình nguyện tham gia phục vụ nhiều, càng ít gặp phải nhưng căn bệnh hiểm nghèo trong đời sống của họ. Điều này giúp họ sống lâu hơn những người không tình nguyện tham gia các hoạt động từ thiện.
Từ nghiên cứu đầu tiên này, nhiều nghiên cứu khác cố khám phá ra những ảnh hưởng tích cực tương tự. Giúp đỡ người khác làm gia tăng đời sống sức khỏe. Nó tốt hơn tập thể dục 4 lần một tuần.
Lợi ích này xảy ra như nhau nơi đàn ông cũng như đàn bà, người già cũng như người trẻ. Thực ra, nhiều cuộc khảo sát thực hiện với những người trên 65 tuổi. Mỗi cuộc nghiên cứu đều cho ra kết quả như nhau. Những người tình nguyện phục vụ thì ít bệnh nặng hơn những người không tham gia phục vụ. Bao gồm những bệnh như ung thư, đột quỵ, tim mạch. Một nghiên cứu được thực hiện vào năm 1995 cho ra một kết quả đáng ngạc nhiên. Nó cho thấy rằng những người tình nguyện thường giảm được nguy cơ tử vong nơi người lớn tuổi đến 44%.
Nhưng tại sao có thể như vậy? Các nhà khoa học thấy có nhiều nguyên nhân. Họ muốn có câu trả lời cho vấn đề này.
Một nguyên nhân rõ ràng là sự gia tăng sức đề kháng trong cơ thể. Kháng thể được tạo ra khi cơ thể chiến đấu chống lại bệnh tật. Nghiên cứu cho thấy có một tương quan mạnh mẽ giữa việc thể hiện lòng tốt với người khác với sự gia tăng kháng thể. Một cơ thể sẽ sản xuất nhiều kháng thể sau khi thực hiện một hành động nhân từ. Sự gia tăng kháng thể này có thể kéo dài gần một giờ, sau khi hành động tốt bụng hoàn tất. Các nhà khoa học cho rằng kháng thể đã tác động đến sức khỏe và tuổi thọ. Tuy nhiên, kháng thể không phải là nguyên nhân duy nhất.
Một lý do khác là sự gia tăng một chất chống lại tác động của căng thẳng và áp lực lên đời sống. Bình thường, khi gặp căng thẳng cơ thể sản xuất ra những chất hóa học. Qua thời gian, những chất căng thẳng này có thể dẫn tới nhiều bệnh tật, như là cao huyết áp và bệnh tim. Nhưng các nhà khoa học đã tìm ra một mối liên quan giữa việc tử tế với tha nhân và sự gia tăng chất oxcytocin. Oxcytocin là một chất được sản sinh trong não. Nó làm giảm những chất nguy hiểm cho cơ thể tạo nên sự căng thẳng.
Có một thay đổi tích cực khác mà các nhà khoa học tìm ra trong nhiều cuộc nghiên cứu. Làm việc tốt có thể sản sinh ra endorphin trong não bộ con người. Endorphin là chất tự nhiên trong cơ thể. Nó làm giảm đau và gia tăng hưng phấn. Xúc cảm tiêu cực có thể đưa tới sức khỏe yếu kém. Khi một người cảm thấy thoải mái thường xuyên hơn, họ sẽ có sức khỏe tốt hơn.
Sống lâu, sức khỏe là hai hiệu quả tích cực của làm việc tốt. Các nhà nghiên cứu tin rằng, làm việc tốt cũng giúp người ta thể hiện tốt hơn trong cuộc sống.
Vào năm 2010, có ba cuộc nghiên cứu được tiến hành do Kurt Gray, một khoa học gia của Đại học Harvard. Các cuộc khảo sát này muốn tìm xem liệu lòng tốt có ảnh hưởng gì trên sức khỏe thể chất hay không. Và họ thấy chúng có ảnh hưởng. Người ta khỏe mạnh hơn khi giúp đỡ người khác. Họ cũng làm việc chăm chỉ hơn. Trong một báo cáo, Gray nói:
“Làm việc tốt giúp cho con người có sức mạnh để hoạt động một cách hữu hiệu và đạt được mục đích của mình dễ dàng hơn”.
Khoa học vẫn đang khám phá những hiệu ứng tích cực từ hoạt động từ thiện. Ý tưởng này là mới với thế giới của khoa học nhưng không mới với thế giới của đức tin. Hàng ngàn năm nay, các tôn giáo vẫn khuyến khích con người yêu thương và quan tâm chăm sóc mọi người sống chung quanh mình.
Trong niềm tin Kitô giáo, Thiên Chúa đã hứa chúc phúc cho những ai chăm sóc cho người đang cần sự giúp đỡ. Sách châm ngôn là một danh sách dài những lời khôn ngoan trong Kinh Thánh Kitô giáo. Một trong những lời đó là: “Người chúc lành cho kẻ khác thì được đầy dẫy ơn lành; những ai giúp đỡ người khác thì chính họ được nâng đỡ”.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu vẫn đang tìm hiểu về khoa học làm việc thiện. Nhưng có một việc chúng ta biết chắc chắn nhờ các bằng chứng: Làm việc tốt cho người khác thì cũng tốt cho chính chúng ta.
(Doing Good is Good for You / spotlightenglish.com)
Cành Dương chuyển ngữ