Get Adobe Flash player

Tìm Kiếm

Đăng nhập

Thứ bảy, 07 Tháng 7 2012 22:09

Hạnh Các Thánh Tháng 7 ( tiếp)

Posted by 
Rate this item
(0 votes)
CacThanhThang7

 _Thnh_Phanxic_Slan_Linh_mc

17/7 –  Thánh Phanxicô Sôlanô, Linh mục (1549-1610)

      Thánh Phanxicô Sôlanô xuất thân trong một gia đình có tiếng ở Andalusia, Tây Ban Nha. Có thể nhờ danh tiếng của ngài mà ngài đã can ngăn được 2 người đấu kiếm. Ngài vào Dòng Phanxicô năm 1570, sau khi thụ phong linh mục, ngài tận tâm sống vì người khác. Ngài chăm sóc bệnh nhân trong lúc dịch bệnh, được khâm phục đến nỗi ngài cảm thấy lúng túng, đáng lẽ ngài được sai đi truyền giáo ở Phi châu, nhưng sau đó ngài lại được sai tới Nam Mỹ năm 1589.

     Khi làm việc ở đó (nay là Argentina, Bolivia và Paraguay), ngài mau chóng nói được tiếng bản xứ và được dân bản xứ đón nhận. Những lần ngài đi thăm bệnh nhân, ngài thường cầu nguyện với cây vĩ cầm (violin, tức là viôlông).

     Khoảng năm 1601, ngài được saii tới Lima (thuộc Peru), tại đây ngài cố gắng kêu gọi thực dân Tây Ban Nha giữ tính toàn vẹn của bí tích Rửa tội. Ngài còn hoạt động để bảo vệ dân bản xứ khỏi bị áp bức. Ngài qua đời tại Lima và được phong thánh năm 1726.

18/7 –  Chân phước Angeline Marsciano, Đồng trinh (1374-1435)

     CP Angeline thành lập cộng đoàn nữ tu Phanxicô đầu tiên, khác Dòng của thánh Clara, và được Đức giáo hoàng phê chuẩn. CP Angeline là con của công tước Marsciano (gần Orvieto). Bà mồ côi mẹ khi mới 12 tuổi. Ba năm sau, cô gái Angeline khấn trọn đời đồng trinh. Cùng năm đó, bà phải tuân lệnh cha để kết hôn với công tước Civitella. May thay, chồng bà tôn trọng lời khấn đồng trinh của bà.

     Hai năm sau, chồng bà qua đời, bà vào Dòng Phanxicô và cùng vài phụ nữ khác tự nguyện chăm sóc bệnh nhân, người nghèo, người góa bụa và trẻ mồ côi. Khi nhiều phụ nữ khác gia nhập cộng đoàn của CP Angeline, một số người kết án bà đã vi phạm ơn gọi hôn nhân. Bà đến gặp vua Naples để trả lời về lời kết tội kia, bà đã giấu than hồng trong áo. Khi bà nói mình vô tội và cho nhà vua thấy than hồng trong áo mà bà không bị làm sao, và nhà vua bỏ qua vụ này.

     Sau đó, bà và các bạn tới Foligno, nơi có cộng đoàn nữ Dòng Ba Phanxicô đã được giáo hoàng phê chuẩn năm 1397. Bà còn thành lập 15 cộng đoàn nữ khác tại các thành phốở Ý. Bà qua đời ngày 14-7-1435, được phong chân phước năm 1825.

19/7 –  Tôi tớ Chúa Phanxicô Garces, Linh mục, và các bạn tử đạo (qua đời khoảng năm 1781)

     Việc chính phủ xen vào việc truyền giáo và chiếm đất đai xảy ra ở Ý khiến các tu sĩ này phải thiệt mạng.

     Phanxicô Garcés sinh năm 1738 tại Tây Ban Nha, và nơi đây ngài vào Dòng Phanxicô. Ngài thụ phong linh mục năm 1763 và được sai tới Mexico. Năm năm sau, ngài được sai tới San Xavier del Bac, gần Tucson, một trong số các đoàn truyền giáo của Dòng Tên được thành lập ở Arizona và New Mexico. Năm 1767, họ bị nhà vua Công giáo của Tây Ban Nha trục xuất khỏi lãnh thổ. Tại Arizona, ngài làm việc giữa những người Papago, Yuma, Pima và bộ lạc Apache ở Mỹ. Ngài còn đi truyền giáo ở Grand Canyon và California.

     Tu sĩ Phanxicô Palou, một người đương thời, viết rằng LM Garcés được dân bản xứ rất yêu mến, có những người trong số họ sống bình an một thời gian dài. Họ thường cho ngài đồăn và nhắc đến ngài với cách nói “Vạn tuế Chúa Giêsu” (Viva Jesus).

     Vì muốn hoán cải người bản xứ, các nhà truyền giáo Tây Ban Nha muốn tổ chức ổn định cho họ tránh thực dân và quân đội Tây Ban Nha. Như một tư lệnh ở Mexico khăng khăng cho rằng hai đoàn truyền giáo mới ở sông Colorado, Misión San Pedro y San Pablo và Misión La Purísima Concepción, đã được hòa nhập.

     Cuộc nổi dậy của người Yumas chống lại người Tây Ban Nha đã khiến các tu sĩ Juan Diaz và Matias Moreno thiệt mạng ở Misión San Pedro y San Pablo. Các tu sĩ Phanxicô Garcés và Juan Barreneche bị giết tại Misión La Purísima Concepción (nơi đồn Yuma).

20/7 –  Thánh Apollinaris, Giám mục Tử đạo (thế kỷ I)

     Theo truyền thống, thánh Phêrô gởi Apollinaris tới Ravenna, Ý, trong cương vị giám mục tiên khởi. Ngài rất thành công trong việc rao truyền Tin Mừng đến nỗi dân ngoại ở đó đánh đập ngài và lôi ngài ra khỏi thành phố. Tuy nhiên, ngài vẫn quay lại, và ngài lại bị trục xuất lần nữa. Sau khi giảng đạo ở quanh vùng Ravenna, ngài lại vào thành phố. Sau khi bị hành hạ dã man, ngài bị đưa lên tàu chơ tới Hy Lạp. Dân ngoại ở đó lại khiến ngài bị trục xuất sang Ý, từ đây ngài lại đi Ravenna lần thứ tư. Ngài qua đời vì bị thương do bị đánh đập ở Classis, ngoại ô Ravenna. Một đại giáo đường được xây dựng dâng kính ngài ở đó từ thế kỷ VI.


 Thnh Lawrence_Brindisi_Linh_mc_Tin_s

21/7 –  Thánh Lawrence Brindisi, Linh mục Tiến sĩ (1559-1619)

      Thánh Lawrence Brindisi có thiên tài về ngôn ngữ. Ngoài ngôn ngữ bản xứ là tiếng Ý, ngài còn nói và đọc được tiếng Latin, Hebrew, Hy Lạp, Đức, Bohemian, Pháp và Tây Ban Nha.

     Ngài sinh ngày 22-7-1559. Cha mẹ ngài là ông William và bà Elizabeth Russo đặt tên cho ngài theo tên của Julius Caesar, Caesare theo tiếng Ý. Cha mẹ ngài mất sớm, ngài được người thúc bá cho theo học ởĐH Thánh Maccô ở Venice. Lúc 16 tuổi, ngài vào Dòng Phanxicô ở Venice và lấy tên dòng là Lawrence. Ngài hoàn tất chương trình triết học và thần học tại ĐH Padua và thụ phong linh mục lúc 23 tuổi.

     Với khả năng xuất sắc về ngôn ngữ, ngài học Kinh thánh bằng văn bản gốc. Theo yêu cầu của ĐGH Clêmentô VIII, ngài dành nhiều thời gian giảng đạo cho người Do Thái ở Ý. Kiến thức về tiếng Hebrew của ngài rất xuất sắc đến nỗi các luật sĩ Do Thái cứ tưởng ngài là người Do Thái trở lại Kitô giáo. Năm 1956, các tu sĩ Phanxicô xuất bản bộ sách 15 cuốn của ngài. 11 cuốn trong 15 cuốn gồm các bài giảng của ngài, mỗi cuốn chủ yếu trích dẫn Kinh thánh để minh chứng những lời ngài giảng.

     Ngài rất nhạy cảm với nhu cầu của người khác – một tính chất có thể gây bất ngờở các học giả biệt tài như vậy. Ngài được bầu làm giám tỉnh Dòng Phanxicô ở Tuscany khi ngài mới 31 tuổi. Ngài vừa thông minh, vừa thương người và vừa có tài quản lý để làm nhiệm vụ. Năm 1602, ngài được bầu làm bề trên tổng quyền Dòng Phanxicô. Ở cương vị này, ngài có trách nhiệm làm phát triển và mở rộng địa lý của dòng.

     Ngài được bổ nhiệm làm Phái viên Tòa thánh (papal emissary) và Sứ giả Hòa bình (peacemaker), một nhiệm vụ khiến ngài phải đi nhiều nước. Cố gắng đạt được hòa bình ở Naples khiến ngài phải đi Lisbon tiếp kiến vua Tây Ban Nha. Tại Lisbon, ngài bị bệnh nặng và qua đời đúng ngày sinh nhật thứ 60 của ngài năm 1619.


Thnh Maria_Maalna

22/7 –  Thánh Maria Mađalêna

      Ngoài Đức Maria, chỉ vài phụ nữ được tôn kính trong Kinh thánh nhiều hơn Maria Magđalêna. Bà có thể là bổn mạng của những người bị vu khống, vì có một truyền thuyết lâu đời trong Giáo hội nói rằng bà là người phụ nữ tội lỗi vô danh đã xức dầu chân Chúa Giêsu được thuật lại trong Lc 7:36-50.

     Đa số các học giả Kinh thánh ngày nay đều chứng tỏ rằng không có nền tảng Kinh thánh nào để lẫn lộn hai phụ nữ này. Maria Magđalêna, nghĩa là Maria ở Magđalêna, là người mà Chúa Giêsu đã đuổi “bảy quỷ” (Lc 8:2).

     LM W.J. Harrington, Dòng Đa Minh, viết trong cuốn “Chú giải Công giáo mới” (New Catholic Commentary): “Bị bảy quỷ ám không có nghĩa là thánh Maria Mađalêna đã sống cuộc đời vô luân, một kết luận chỉ đạt được bằng cách lầm lẫn với phụ nữ vô danh trong Lc 7:36”. LM Edward Mally, Dòng Tên, viết trong cuốn “Chú giải Kinh thánh của Thánh Giêrônimô” (Jerome Biblical Commentary): “Bà (Maria Mađalêna) không là phụ nữ tội lỗi trong Lc 7:37, mặc dù có truyền thống lãng mạn Tây phương nói về bà”.

     Maria Mađalêna là một trong những người “giúp Chúa Giêsu và Nhóm Mười Hai”. Bà là một trong những người đứng bên Thánh giá với Đức Mẹ.



Thnh Brighita

23/7 –  Thánh Brighita (1303?-1373)

      Từ lúc 7 tuổi, Brighita được thị kiến Đức Kitô bị đóng đinh. Thị kiến đó đã làm nền tảng cho các hoạt động của bà – luôn chú trọng bác ái hơn là ủng hộ tinh thần.

     Bà là hoàng hậu của vua Magnus II, vua Thụy Điển. Bà là mẹ của 8 người con (con thứ hai của bà là thánh Catarina Thụy Điển). Sau khi chồng mất, bà sống ăn chay hãm mình nghiêm nhặt. Bà luôn cố gắng tạo ảnh hưởng tốt đối với vua Magnus, chính nhà vua đã cho bà đất đai và nhà cửa để thành lập các tu viện nam và nữ. Các nhóm tu trì này phát triển thành Dòng Thánh Brighita (Bridgetines) mà ngày nay vẫn còn.

     Năm Thánh 1350, bà khuyến khích người Âu châu đi hành hương Rôma. Những năm bà sống ở Rôma không thoải mái, bị nợ nần và bị chống đối vì bà phản đối việc lạm dụng của Giáo hội. Đoàn hành hương cuối cùng đến Thánh Địa, bị đắm tàu và con trai bà là Charles chết, cuối cùng bà mất năm 1373. Năm 1999, bà cùng với thánh Catarina Siena và thánh Edith Stein được tôn vinh là các thánh bổn mạng của Âu châu.

 

Thnh Sharbel_Makhlouf

24/7 –  Thánh Sharbel Makhlouf, Linh mục (1828-1898)

      Giuse Zaroun Maklouf sinh tại làng Beka-Kafra, Lebanon, được người thúc bá nuôi vì ngài mồ côi cha mẹ từ lúc 3 tuổi. Lúc 23 tuổi, ngài vào tu viện thánh Maron ở Annaya, Lebanon, và lấy tên là Sharbel – vị tử đạo hồi thế kỷ II. Ngài khấn trọn năm 1853 và thụ phong linh mục 6 năm sau.

     Noi gương thánh Maron (thế kỷ V), ngài sống ẩn tu từ năm 1875 cho đến chết. Gương thánh thiện của ngài làm cho nhiều người đến xin phúc lành và xin cầu nguyện. Ngài ăn chay nghiêm nhặt và rất sùng kính Thánh Thể. Thi thoảng bề trên sai ngài đi ban các bí tích cho các làng lân cận, ngài vui vẻ vâng lời.

     Ngài qua đời vào chiều tối ngày 24-12-1898. Mộ ngài được cả người giáo lẫn người lương đến cầu nguyện và xin ơn chữa lành. Ngài được CP GH Phaolô VI phong chân phước năm 1965, và được phong thánh năm 1977.


Thnh Giacb_Tng_

 25/7 –  Thánh Giacôbê, Tông đồ

      Thánh Giacôbê là anh của thánh Gioan thánh sử. Hai anh em được Chúa Giêsu kêu gọi khi họ đang làm việc với người cha trên ngư thuyền ở Biển Galilê: “Đi xa hơn một chút, Người thấy ông Giacôbê, con ông Dêbêđê, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dêbêđê ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người” (Mc 1:19-20). Chúa Giêsu còn kêu gọi hai anh em khác là thánh Phêrô và thánh Anrê.

     Thánh Giacôbê là một trong ba người được chứng kiến Chúa biến hình trên núi Tabor, cho con gái ông Giairô sống lại và lúc Chúa Giêsu hấp hối trong vườn Gếtsimani.

     Thánh Matthêu kể chuyện người mẹ đến xin cho hai con của bà được ngồi bên tả và bên hữu trong Nước Chúa. “Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”. Họ đáp: “Thưa uống nổi”. Đức Giêsu bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻấy mới được” (Mt 20:22-23). Nghe vậy, các môn đệ đã tức tối vì tham vọng của Giacôbê và Gioan. Và Chúa Giêsu dạy họ về bài học khiêm nhường: Mục đích của quyền hành là phục vụ.

     Giacôbê và Gioan được Chúa Giêsu đặt cho biệt danh là “con của sấm sét”. Một dịp khác, Chúa Giêsu muốn đi Giêrusalem, Ngài sai mấy sứ giả đi trước nhưng không được người Samari đón tiếp. “Thấy vậy, hai môn đệ Người là ông Giacôbê và ông Gioan nói rằng: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?”, nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông” (Lc 9:54-55).

     Thánh Giacôbê là người tử đạo đầu tiên trong các tông đồ. “Thời kỳấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan. Thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men” (Cv 12:1-3). Đừng lầm lẫn thánh Giacôbê tông đồ với tác giả Thư của thánh Giacôbê, người lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem.


Thnh Gioakim_v_Anna_Song_thn_c_M

 26/7 – Thánh Gioakim và Anna, Song thân Đức Mẹ

      Trong Kinh thánh, thánh sử Matthêu và Luca cung cấp gia phả của Chúa Giêsu, cho thấy rằng Chúa Giêsu là đỉnh cao của những lời hứa. Chúng ta không biết gì nhiều, ngay cả ông bà Gioakim và Anna cũng chỉđược viết sau khi Chúa Giêsu chịu chết được hơn 100 năm.

     Đức tính anh hùng và sự thánh thiện của các ngài được suy ra từ không khí cả gia đình xung quanh Đức Maria trong Kinh thánh. Chúng ta dựa vào các truyền thuyết về thời thơ ấu của Đức Maria hoặc suy đoán từ thông tin trong Kinh thánh, chúng ta thấy sự viên mãn của nhiều thế hệ những con người cầu nguyện ở nơi Đức Mẹ, chính Đức Mẹ đã say đắm trong truyền thống tôn giáo.

     Tính cách mạnh mẽ của Đức Maria khi quyết định, liên lỉ cầu nguyện, tuân thủ luật đức tin, sự vững vàng của Đức Mẹ khi gặp khủng hoảng, và tận tụy với những người thân – tất cả cho thấy gia đình gắn bó yêu thương, trông mong thế hệ kế tiếp duy trì những điều tốt đẹp nhất của quá khứ.

     Ông bà Gioakim và Anna (không biết có phải tên thật của các ngài hay không) biểu hiện các thế hệ khá lặng lẽ khi trung thành thực hiện trách nhiệm, giữ đức tin và thiết lập môi trường cho Đấng Thiên Sai tới, nhưng vẫn chưa rõ ràng.

27/7 –  Chân phước Antôniô Lucci, Giám mục (1682-1752)

     Chân phước Antôniô Lucci là bạn học với thánh Francesco Antonio Fasani. Sau khi CP Antonio Lucci qua đời, thánh Francesco Antonio Fasani đã làm chứng về cuộc sống thánh thiện của CP Lucci.

     CP Antonio Lucci sinh tại Agnone, Nam Ý, một thành phố nổi tiếng về đúc chuông đồng và đồ thủ công bằng đồng, tên rửa tội của ngài là Angelo. Ngài học trường của các tu sĩ Dòng Phanxicô và vào tu dòng này lúc 16 tuổi. Ngài học xong và thụ phong linh mục tại Assisi năm 1705. Ngài học thêm và có bằng tiến sĩ thần học, được bổ nhiệm dạy học ở Agnone, Ravello và Naples.

     Ngài được bầu làm giám tỉnh năm 1718, năm sau ngài được chọn làm giáo sư tại Đại học Thánh Bonaventure College ở Rôma. Rồi ngài được ĐGH Bênêđictô XIII bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Bovino (gần Foggia) năm 1729. ĐGH Bênêđictô XIII giải thích: “Tôi chọn giám mục giáo phận Bovino là một thần học gia xuất sắc và là vị đại thánh”.

     Trong 23 năm làm giám mục, ngài kinh lý các giáo xứ và canh tân Phúc âm sống động trong giáo dân của giáo phận. Ngài dành thời gian để giáo huấn và bác ái. Theo sự thúc giục của bề trên tổng quyền Dòng Phanxicô, ngài viết một cuốn sách về các thánh và các chân phước trong 200 năm đầu của Dòng Phanxicô. Ngài được phong chân phước năm 1989. Năm 1992, bạn ngài là Francesco Antonio Fasani được phong thánh.


Thnh Leopold_Mandic_Linh_mc

28/7 –  Thánh Leopold Mandic, Linh mục (1887-1942)

      Các Kitô hữu Tây phương cố gắng đối thoại nhiều hơn với các Kitô hữu Chính thống giáo có thể thu hoạch hoa trái nhờ lời cầu nguyện của LM Leopold Mandic.

     Ngài là người Croatia, vào Dòng Phanxicô và thụ phong linh mục vài năm sau dù ngài có vài vấn đề về sức khỏe. Ngài không thể nói to để giảng. Suốt nhiều năm ngài chịu đựng chứng viêm khớp nặng, mắt kém và đau bao tử.

     Ngài dạy về các Giáo phụ cho các giáo sĩ trong vài năm, nhưng ngài nổi tiếng về giải tội, có những ngày ngài giải tội 13–15 giờ. Vài vị giám mục tìm đến ngài để được tư vấn tâm linh.

      Ước mong của ngài là đến với các Kitô hữu Chính thống giáo và vận động đoàn kết giữa Chính thống giáo và   Công giáo La mã, nhưng sức khỏe không cho phép ngài làm được điều đó. Ngài thường xuyên nhắc lại lời khấn đến với các Kitô hữu Đông phương, và ngài luôn cầu nguyện cho sự hiệp nhất.

     Khi ĐGH Piô XII nói rằng tội lỗi lớn nhất của thời đại chúng ta là “mất cảm giác về tội”, thánh Leopold đã cảm nhận sâu sắc về tội lỗi và và vững tin vào Ơn Chúa luôn chờ đợi sự hợp tác của con người. Ngài sống nhiều ở Padua, qua đời ngày 30-7-1942 và được phong thánh năm 1982.

 



Thnh Matta

29/7 –  Thánh Matta

      Matta, Maria và Ladarô là các bạn thân của Chúa Giêsu. Ngài tới nhà họ với tư cách là khách hơn là người hoán cải các tội nhân như Dakêu hoặc được một người Pharisêu khả nghi tiếp đón không câu nệ hay khách sáo gì. Hai chị em không ngại mời Chúa Giêsu đến khi em trai họ qua đời, mặc dù trở lại Giuđêa vào thời điểm đó hầu như là đã chết chắc.

     Không nghi ngờ, Matta là người năng động. Một lần nọ (x. Lc 10:38-42), bà chuẩn bị bữa ăn cho Chúa Giêsu và bà không ngại khi trách em gái.

     Nhưng các dịp khác, Chúa nhấn mạnh về tính ưu việt của tâm linh: "Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?... Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:25, 33); “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh” (Lc 4:4); “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5:6).

     Vinh dự lớn lao của Matta là câu tuyên xưng đức tin đơn giản mà mạnh mẽ sau cái chết của em trai. “Đức Giêsu nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” Cô Matta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11:25-27).


Thnh Phr_Chrysologus

30/7 –  Thánh Phêrô Chrysologus, Giám mục Tiến sĩ (406-450?)

      Ngài thường được gọi là Phêrô Kim ngôn hoặc Kim khẩu. Một người hăng hái theo đuổi một mục đích có thể sinh kết quả hơn cả mong đợi, đó là thánh Phêrô Kim ngôn. Ngài làm giám mục giáo phận Ravenna khi còn trẻ tuổi.

     Thời đó có những sự lạm dụng và vết tích của chủ nghĩa ngoại giáo ở giáo phận của ngài, và ngài quyết định đấu tranh. Vũ khí chính của ngài là những bài giảng ngắn gọn, nhiều bài còn lưu truyền tới ngày nay. Các bài giảng đó không chứa đựng tư tưởng cao siêu, nhưng chứa đầy cách áp dụng luân lý, giáo lý và quan trọng về lịch sử. Các bài giảng của ngài có mức chính xác đến nỗi khoảng 13 thế kỷ sau, ngài được ĐGH Bênêđictô XXIII tôn vinh là Tiến sĩ Hội thánh.

     Ngài nổi bật về lòng trung thành với Giáo hội, không chỉ trong những bài giáo huấn mà còn cả trong quyền hành. Một thời gian trước khi qua đời, ngài trở lại Imola, nơi ngài sinh, và cũng là nơi ngài qua đời.


Thnh Inhaxi_Loyola

31/7 –  Thánh Inhaxiô Loyola (1491-1556)

      Thánh Inhaxiô là vị sáng lập Dòng Tên. Ngài là một quân nhân và bị trái pháo làm bị thương ở chân. Khi nằm điều trị, không có sách nào hay để đọc, ngài “giết thời gian” bằng cách đọc sách về cuộc đời Chúa Kitô và hạnh các thánh. Ngài được đánh động sâu sắc. Thấy Đức Mẹ trong một thị kiến, ngài quyết định hành hương tới đền Đức Mẹở Montserrat (gần Barcelona). Ngài ở Manresa gần 1 năm, và thường vào hang động để cầu nguyện. Sau một thời gian lắng đọng tâm hồn, ngài cân nhắc cuộc đời. Làm thế nào cũng không thấy lòng bình an. Một thời gian dài sau ngài mới lấy lại được quân bình. Khi đó ngài bắt đầu viết kiệt tác “Luyện tập Tâm linh” (Spiritual Exercises).

     Ngài sống 11 năm ở các trường đại học Âu châu, ngài học rất khó khăn, bắt đầu như một đứa trẻ. Hai lần ngài bị nghi ngờ và 2 lần bị tù một thời gian ngắn.

     Năm 1534, khi ngài 43 tuổi, ngài và 6 anh em khác (trong đó có thánh Phanxicô Xaviê) khấn sống khó nghèo và khiết tịnh, và cùng tới Thánh Địa. Bốn năm sau, thánh Inhaxiô lập Dòng Tên và được ĐGH Phaolô III phê chuẩn, chính thánh Inhaxiô được bầu làm bề trên tổng quyền đầu tiên. Ngài còn thành lập trường ĐH Rôma, kiểu mẫu của các Đại học khác.

     Ngài thực sự là nhà thần bí. Ngài tập trung đời sống tâm linh vào các nền tảng chính của Kitô giáo – Chúa Ba Ngôi, Đức Kitô, và Thánh Thể. Tinh thần của ngài được diễn tả bằng câu châm ngôn của Dòng Tên: “Ad majorem Dei gloriam” (vì vinh quang Thiên Chúa). Theo khái niệm của ngài, vâng lời là nhân đức nổi trội, bảo đảm hiệu quả và tính di động của các tu sĩ. Mọi hoạt động được hướng dẫn bằng lòng yêu thực sự dành cho Giáo hội và vâng lời Đức Giáo hoàng vô điều kiện, do đó mà các tu sĩ Dòng Tên có lời khấn thứ tư là đến bất cứ nơi nào ĐGH sai đi để cứu các linh hồn.

 

Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ BeliefNet.com, Saints.sqpn.com, AmericanCatholic.org, Catholic.org)

 

Read 7783 times