TMĐP- Hai bà goá được nêu lên như gương sáng của lòng quảng đại và trái tim tín thác ở Thiên Chúa đã mở ra cho chúng ta một con đường đích thực để đến với Đức Giêsu.
Kinh nghiệm chiến tranh thì phần đông chúng ta đều đã trải nghiệm và một trong những nỗi đau ngút ngàn từ những mất mát không gì có thể bù đắp của chiến tranh chính là hàng hàng lớp lớp trai trẻ của cả hai bên gục ngã ngoài chiến trường đã khơi dòng nước mắt của cha mẹ già, của vợ dại, con thơ, của người tình sau bao nhiêu năm vẫn cứ lặng lẽ, âm thầm, tức tưởi chảy dài.
Trong số những người đã khóc và đang khóc có những người vợ chiến sĩ trận vong, những người vợ của anh hùng, liệt sĩ, những người vợ của người lính đã dâng hiến máu xương mình để bảo vệ giang sơn, đem lại tự do, hoà bình cho đồng bào.
Tin Mừng hôm nay đặt bà goá làm trọng tâm, không chỉ các bà goá do chiến tranh, mà tất cả mọi người đàn bà đã và đang phải chịu cảnh goá bụa trong cuộc sống.
Đúng hơn Tin Mừng của chúa nhật này chọn trái tim bà goá làm gương sống cho người môn đệ Đức Giêsu khi đề cao lòng yêu mến Thiên Chúa và trái timquảng đại đối với tha nhân của hai bà goá, một trong Cựu Ước, một trong Tân Ước.
Bà goá làng Xarépta rất nghèo, nhưng vẫn sẵn sàng cho hết những gì mình có, như lời bà nói với ngôn sứ Êlia, người đã xin bà nước và bánh: “Có Đức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi chết” (1 V 17,12). Bà thực sự đang hoàn toàn bế tắc ở cây số cuối cùng của đời goá bụa nghèo nàn, cơ cùng, thiếu thốn giữa tâm bão của tai ương hạn hán (x. 1 V 17,7).
Trước tấm lòng quảng đại và con tim phó thác của bà goá nghèo làng Xarépta, Đức Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ Êlia: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất” (1 V 17,14).
Bà goá thứ hai trong Tân Ước thì chính Đức Giêsu nhận ra khi Ngài quan sát đám đông đang bỏ tiền vào thùng dâng cúng của Đền Thờ. Và giữa “những người giàu bỏ thật nhiều tiền”, Ngài nhận ra “bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma” (Mc 12,41.42), nghĩa là chẳng đáng giá gì.
Điều bất ngờ là Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại, và chỉ cho các ông bà goá nghèo vừa bỏ vào thùng dâng cúng hai dồng tiền kẽm “rất nhỏ bé, ít oi” đó và nói với các ông: “Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình” (Mc 12,43-44).
Thực vậy, ở thời đại thực dụng, khi mọi người, mọi việc, mọi sự đều được đánh giá bằng vị thế, danh vọng, quyền lực, tiền bạc, thì bà goá nghèo đương nhiên được xã hội “ưu tiên, ưu đãi” xếp vào thành phần không được tôn trọng, nếu không muốn nói là bị khinh bỉ, tảy chay, đe dọa, bóc lột … . Mà không riêng xã hội, nhưng cả Giáo Hội cũng chạy theo khuynh hướng, trào lưu phản Tin Mừng này. Bằng chứng là trong Tin Mừng Mátthêu, chính Đức Giêsu đã lên án các kinh sư và người Pharisêu, là những “đấng bậc trong đạo” đã “nuốt hết tài sản của các bà goá” (Mt 23,14).
Tóm lại, hai bà goá được nêu lên như gương sáng của lòng quảng đại và trái tim tín thác ở Thiên Chúa đã mở ra cho chúng ta một con đường đích thực để đến với Đức Giêsu. Đó là chấp nhận những thiếu thốn, nghèo khó, khiếm khuyết, và dâng hết những gì thiên hạ cho là không đáng, không giá trị ở con người chúng ta, nơi thân phận chúng ta, trong gia đình chúng ta lên Thiên Chúa, bởi chính Ngài sẽ làm cho chúng ta được trở thành những bàn tay thi ân của Thiên Chúa khi đem lại lợi ích cho người khác, bằng làm đầy trái tim nghèo khó của chúng ta bằng tình yêu vô cùng của Ngài, và biến tình trạng cơ cùng, quẫn bách của chúng ta thành cơ hội qúy giá mang lại hạnh phúc cho anh em, như Đức Chúa đã làm cho hũ bột của bà goá Xarépta không vơi, cho vò dầu của bà chẳng bao giờ cạn (x. 1 V 17,16).
Jorathe Nắng Tím