Get Adobe Flash player

Tìm Kiếm

Đăng nhập

Thứ sáu, 13 Tháng 3 2020 06:21

Bài học cho 3 nhân vật

Posted by 
Rate this item
(0 votes)
  Bài học cho 3 nhân vật


Thứ Bảy 14.3

Lc 15, 1-3, 11-32

3 BÀI HỌC CHO 3 NHÂN VẬT TRONG CÂU CHUYỆN TIN MỪNG

Qua dụ ngôn "người con hoang đàng" quen thuộc mà chúng ta có dịp lắng nghe trong Mùa Chay này, Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta tình yêu cao vời ấy của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng cho chúng ta có tự do. Thiên Chúa muốn đối xử với chúng ta như một con người trưởng thành.

Ðó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói lên qua hình ảnh một người cha không muốn khăng khăng giữ lấy đứa con, mà trái lại chia gia tài cho nó, để nó được tự do sử dụng tất cả những gì thuộc về nó. Mà dẫu cho người con có lên đường đi tạo lập một cuộc sống riêng tư, người cha vẫn không ngừng ngóng trông, theo dõi và chờ đợi đứa con. Ông khắc khoải từng giây từng phút. Ngày ngày ông ra trước ngõ để ngóng trông.

Và khi người con vừa xuất hiện từ đằng xa, người cha đã chạy đến ôm chầm lấy con và hôn lấy hôn để, rồi ông lại sai gia nhân mặc áo đẹp cho cậu con, xỏ nhẫn, đeo giày cho cậu và mở tiệc ăn mừng. Có lẽ trong văn chương nhân loại từ cổ chí kim chưa có một áng văn nào đẹp cho bằng hình ảnh trên đây. Thiên Chúa yêu thương đến độ tìm kiếm, ngóng trông con người từng giây từng phút, Thiên Chúa yêu thương đến độ sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi phạm của con người, để phục hồi nó hoàn toàn trong thân phận cao quý của một con người.

Ðó là tất cả Tin Mừng của Kitô giáo. Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả chân lý ấy bằng câu nói: "Thiên Chúa là tình yêu". Thiên Chúa không mong gì hơn nơi con người, là con người nhận biết được tình yêu ấy. Không gì xúc phạm đến Thiên Chúa cho bằng khi con người khước từ tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn về người con hoang đàng trở về, nhưng điểm nhắm của Người lại là người con cả, hiện thân của những người biệt phái.

Ðây là hạng người tự cho mình là những kẻ yêu mến Chúa, tuân giữ các giới răn của Ngài, nhưng kỳ thực họ lại tỏ ra lời phát biểu của người anh cả trong bài dụ ngôn. Anh ta nói: "Ðã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, vậy mà không bao giờ cha cho con riêng một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó".

Nhân vật phản diện của dụ ngôn người cha nhân hậu là “người con cả”. Thái độ và cách xử sự của anh ta ám chỉ thái độ của những người Pharisêu và các kinh sư. Lời xầm xì giữa họ với nhau được đặt song song với lời người con cả trách cha mình và nhục mạ em mình: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15, 29-30). Lời trách móc cha (ám chỉ Chúa Giêsu trong lời xầm xì ở 15, 2) và lời chối bỏ em mình (ám chỉ những người thu thuế và tội lỗi ở 15, 1-2) cho thấy người con cả đã không sống “tư cách làm con” và “tư cách làm anh” trong gia đình. Những người Pharisêu và các kinh sư cũng đang xử sự như người con cả.

Không sống và cư xử như một người con, không đứng ở địa vị con cái, người con cả suy nghĩ và hành động như một đứa ở trong nhà. Từ trước đến bây giờ anh ta không biết đến điều cha anh nói: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (Lc 15, 31).

Người con cả cũng không sống tư cách làm anh vì đã không đón nhận sự trở về của em mình. Anh ta đã phủ nhận tư cách làm anh và hạ thấp em mình khi nói: “Thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (15,30). Đó là “thằng con của cha” chứ không phải là “đứa em của con”, một đứa em đáng quý trọng vì đã biết ăn năn hối cải trở về.

Điều trớ trêu và châm biếm trong bản văn là tương phản giữa hai người con: Người con thứ quay trở về chỉ xin được cha xem là “người làm công”, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng “làm con”, thì người con thứ lại được hưởng trọn vẹn quyền “làm con” qua các biểu tượng: Mặc áo đẹp, đeo nhẫn, đi dép và dự tiệc mừng (15,22-23). Ngược lại người anh cả tự cho mình là “người con gương mẫu”, đã có công “hầu hạ” cha trong nhiều năm, anh ta lại sống và suy nghĩ “như người làm công”, “như người làm thuê”, “như đứa ở” chứ không phải là “người con thực sự”.

Tình trạng của người con cả trầm trọng hơn nhiều so với việc bỏ nhà đi hoang của người con thứ. Bởi vì người con cả ở nhà với cha nhưng không sống tư cách làm con mà anh ta lại không biết điều ấy, nghĩa là vẫn nghĩ mình là đứa con ngoan và hiếu thảo.

Quả thật, những người biệt phái tuân giữ không sai chạy tất cả mọi luật lệ của Chúa, nhưng họ chỉ tuân giữ lề luật trong tinh thần sợ sệt cứng ngắt và giả hình, bởi vì họ không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Và bởi vì không cảm nhận được tha nhân là người anh em ruột thịt của mình. Khước từ Thiên Chúa, con người cũng khước từ anh em của mình. Không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không muốn san sẻ tình yêu với người anh em. Tin Mừng hôm nay quả thực là một quảng diễn về hai giới răn cơ bản trong đạo của chúng ta đó là: Mến Chúa Yêu Người. Người ta không thể mến Chúa mà không yêu tha nhân.

Và hôm nay, ta có các bài học trong mỗi hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Bài học nơi người con thứ là dám quyết định, dám ra đi, dám sống hết mình, dám nhìn nhận sự thật về mình, dám nhận trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Đáng phục hơn cả là dám đứng lên, dám làm lại cuộc đời, dám quay lưng lại với quá khứ, dám hối cải và trở về để sống trọn vẹn tư cách làm con trong tình yêu thương của cha mình. Trong trình thuật, việc những người thu thế và tội lỗi “đến với Chúa Giêsu và nghe Người giảng” (15, 1) được ví như là người con thứ đã can đảm hối cải trở về. Vậy, độc giả đang ở giai đoạn nào trong hành trình tìm kiếm của người con thứ?

Tiếp đến, bài học từ người anh cả. Có bao giờ chúng ta nghĩ mình là “con cái trong nhà” mà thực sự đang sống như “người làm công” hay không? Trong tương quan với anh chị em mình, làm thế nào để đón nhận và cùng chia sẻ trách nhiệm với anh chị em mình chứ không dùng kiểu nói của người con cả: “Thằng con của cha đó”. Liệu lời dạy của người cha có làm cho độc giả nhận ra sự thật trong tương quan với Cha trên trời và với anh chị em mình không?

Sau hết là học nơi cách xử sự của người cha. Có nhiều điều để học hỏi nơi người cha về cách giải quyết những vấn đề phức tạp và tế nhị trong cuộc sống. Có thể nói, khởi đầu dụ ngôn, người cha có hai người con, nhưng trong thực tế lại không có đứa con nào cả. Một đứa thì đi hoang, một đứa thì sống ở nhà với cha nhưng lại sống như một người làm công chứ không phải là con. Làm thế nào để vừa tôn trọng tự do của đứa con muốn ra đi, vừa biết chỉ dạy cho đứa con ở lại về cách thức làm con? Bản văn mời gọi các bậc cha mẹ – cũng như những người có trách nhiệm trên người khác – biết áp dụng cách giáo dục của người cha: Dùng tình thương để cảm hoá và tôn trọng sự tự do để giáo dục sự tự do. Nhờ đó con người có khả năng lấy những quyết định đúng đắn cho mình.

Cả ba bài học trên được trao vào tay người đọc là tất cả chúng ta. Câu chuyện vẫn chỉ là câu chuyện, dụ ngôn vẫn mãi mãi là dụ ngôn. Trang Tin Mừng về người con hoang đàng hôm nay vẫn mở ngỏ, vẫn chỉ là những gợi ý, những đề nghị chứ không trả lời thay cho chúng ta.

Huệ Minh

Read 515 times Last modified on Chủ nhật, 15 Tháng 3 2020 07:43