Get Adobe Flash player

Tìm Kiếm

Đăng nhập

Chủ nhật, 14 Tháng 6 2015 16:20

Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng

Posted by 
Rate this item
(1 Vote)
  TÔNG HUẤN LOAN BÁO TIN MỪNG, một bài viết của Hủ Tíu, người con của giáo xứ, Ban biên tập gxthohoang.net trân trọng giới thiệu...

TÔNG HUẤN LOAN BÁO TIN MỪNG 

 

EVANGELII NUNTIANDI

CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI

 

  • ØDẪN NHẬP

Sứ vụ truyền giáo chính là Tin Mừng để xây dựng nước Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân thúc đẩy người tín hữu loan báo Tin Mừng cho anh em mình. Nhiệm vụ của chúng ta là mạnh dạn dấn thân vào con đường đối thoại với tất cả khả năng của trí tuệ, sức mạnh của con tim và niềm tin tưởng lạc quan nơi quyền năng Thiên Chúa, Đấng tác tạo và hướng dẫn muôn vật theo kế hoạch yêu thương nhiệm mầu của Ngài. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Mt 28,19). Lệnh truyền của Chúa Giêsu vẫn luôn cấp bách như mới vừa nói xong, nó có giá trị cho mọi thời và cho mọi nơi. Tuy nhiên, lệnh truyền này phải được thực thi trong một hoàn cảnh cụ thể. Là người Kitô hữu và là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta cần tìm ra những phương thức thích hợp và hiệu quả nhất để hoàn thành lệnh truyền của Ngài.

 

I. BỐI CẢNH RA ĐỜI

Tông huấn LOAN BÁO TIN MỪNG ( EVANGELII NUNTIANDI ) được Đức Thánh Cha ban hành tại Roma, ngày 08.12.1975, lễ trọng kính Đức Trinh Nữ Maria, Vô Nhiễm Nguyên Tội đã ghi khắc với những biến cố nổi bật:

 Đây là năm mà Giáo Hội dồn mọi nỗ lực vào việc rao giảng Tin Mừng cho mọi người Giáo Hội không mong gì khác hơn là chu toàn nhiệm vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, được công bố từ hai lần nhắc nhở căn bản “Hãy mặc lấy con người mới” (Ep 4,24) và “ Hãy giao hoà cùng Thiên Chúa “ (2 Cr 5,20).

  • Nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày bế mạc Công đồng Vaticanô II. Mục tiêu của công đồng: Làm sao cho Giáo Hội của thế kỷ 20 trở nên thích hợp hơn trong việc loan báo Tin Mừng cho nhân loại của thế kỷ hai mươi.
  • Nhân dịp một năm sau ký đại hội lần thứ ba của Thượng Hội Đồng Giám Mục, một đại hội được dành riêng cho việc Phúc Âm hoá.

 

II. MỤC ĐÍCH CỦA TÔNG HUẤN

  • Đáp ứng  được những nhu cầu và những tiếng kêu của vô số anh em Kitô hữu cũng như ngoài Kitô giáo, họ đang mong đợi nơi Giáo Hội Lời Cứu Rỗi.
  • Sau năm Toàn xá qua chương trình hoạt động mục vụ mà việc loan báo Tin Mừng là một khía cạnh chính yếu, ánh sáng của Năm Thánh cũng sẽ chiếu tỏa cho những năm đứng trước thềm một kỷ nguyên mới.

 

III. ĐẠI Ý VÀ BỐ CỤC CỦA TÔNG HUẤN

 

  1. vĐẠI Ý: Nội dung, đường lối và đối tượng của phúc âm hóa, đồng thời tông huấn đề cập đến người rao giảng và tinh thần của việc rao giảng Tin Mừng
  2. vBỐ CỤC: Tông Huấn gồm 82 số, gồm có lời mở đầu và nội dung chia làm 8 chương

Lời mở đầu

Chương I : Từ Đức Kitô rao giảng đến Giáo Hội rao giảng

Chương II : Phúc âm hóa là gì ?

Chương III : Nội dung của việc phúc âm hóa

Chương IV : Những đường lối của việc phúc âm hóa

Chương V : Đối tượng của việc phúc âm hóa

Chương VI : Những người rao giảng tin mừng

Chương VII : Tinh thần của việc rao giảng tin mừng

Chương VIII : Kết luận

 

IV. NỘI DUNG TÔNG HUẤN

 

Chương I : TỪ ĐỨC KITÔ RAO GIẢNG ĐẾN GIÁO HỘI RAO GIẢNG

Sứ mạng loan báo Tin Mừng bắt nguồn từ chính Đức Kitô qua chính lời chứng và sứ mạng của Người. Chính Đức Giêsu là nhà rao giảng Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất của Giáo Hội. Trước hết, Ngài loan báo một Triều đại, đó là triều đại của Thiên Chúa.Triều đại này quan quan trọng đến nỗi, sánh với nó thì tất cả những cái khác sẽ trở thành “phụ thuộc” và được “ban thêm cho”. Đức Kitô còn loan báo ơn cứu độ như là nòng cốt và trung tâm của Tin Mừng. Ơn cứu độ là hồng ân lớn lao của Chúa giải thoát họ khỏi mọi áp bức, nhất là giải thoát họ khỏi tội lỗi và thần dữ, trong niềm vui nhận biết Thiên Chúa và được Ngài biết tới, được thấy Ngài, được hiến dâng cho Ngài.Ơn cứu độ này được khởi sự suốt đời Đức Kitô và được hoàn tất qua cái chết và sự Phục sinh của Ngài, nhưng ơn này trải  qua dòng lịch sử để được thực hiện cách viên mãn trong ngày Đức Kitô quang lâm. Bởi đó những người thành tâm đón nhận Tin Mừng, sẽ vì việc đón nhận đó và nhờ chia sẻ đức tin mà tụ họp lại nhân danh Chúa Giêsu để cùng nhau tìm kiếm nước trời, rồi xây dựng và sống cho nước đó. Do vậy Giáo Hội được khai sinh từ công cuộc rao giảng của Đức Kitô và mười hai tông đồ. Đây là môn Sứ mạng và một ơn gọi căn cốt của Giáo Hội. Có sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, Giáo Hội khởi sự Phúc âm hóa chính mình bằng sự trở lại và đổi mới liên tục để thế giới dễ chấp nhận Tin Mừng.. Là cộng đoàn những kẻ tin, là cộng đoàn sống và chuyển thông niềm cậy trông, là cộng đoàn tình yêu huynh đệ. Giáo Hội gìn giữ kho tàng Tin Mừng như một kho tàng sống động và quý giá. Đồng thời chính Giáo Hội lại sai phái những kẻ loan truyền Tin Mừng.

Như thế giữa Đức Kitô, Giáo Hội và việc Phúc âm hóa có một mối liên hệ sâu xa, không thể tách rời Giáo Hội khỏi Chúa Kitô.

 

Chương II : PHÚC ÂM HÓA LÀ GÌ ?

 Phúc Âm hóa là đem Tin Mừng vào trong mọi cảnh vực nhân loại và nhờ sự tiếp xúc này làm thay đổi tự bên trong, đổi mới chính nhân loại, dùng sức mạnh của Tin Mừng mà đảo lộn những tiêu chuẩn phán đoán, những giá trị nhân đạo, những bận tâm chính yếu, những trào lưu tư tưởng, những nguồn cảm hứng, những mẫu mực sống của nhân loại, khi những điều ấy ngược lại với Lời Chúa và chương trình cứu độ. Tin Mừng có thể xâm nhập vào tất cả mà không lệ thuộc vào nền văn hóa nào.

Mặt khác, Tin Mừng phải được công bố bằng chứng tá, người Kitô hữu chiếu tỏa niềm tin của mình nơi những gía trị vượt xa những giá trị thông thường, niềm trông cậy vào điều mà người khác không thấy và không dám mơ tưởng tới. Nhờ chứng tá không lời này, Kitô hữu gợi lên những vấn nạn bất khả kháng trong tâm hồn những kẻ trông thấy họ sống . Như vậy sự công bố Tin Mừng tuy thầm lặng nhưng rất mãnh liệt và hiệu nghiệm. Bên cạnh đó Tin Mừng được công bố bằng Lời hằng sống. Không có Phúc âm hóa thật nếu danh tánh, lời giảng dạy, đời sống, lời hứa, vương quốc và mầu nhiệm của Đức Giêsu Nazarét không được công bố.

Thật vậy, việc Phúc Âm hóa đem lại hiệu quả nơi những người lãnh nhận: sự gắn bó với Nước Trời, nghĩa là với thế giới mới, với một tình trạng mới, với một cách hiện hữu mới, với cách sống mới, với cách chung sống mới, mà Tin Mừng khai mở. Sau cùng chính những người được Phúc Âm hóa lại trở nên chứng nhân và người rao giảng Tin Mừng cho người khác.

 

 

Chương III : NỘI DUNG CỦA VIỆC PHÚC ÂM HÓA

Việc Phúc Âm hóa nhấn mạnh đến những điểm chính sau:

 

Làm Chứng cho Tình Yêu của Chúa Cha: Trong Rao giảng Tin Mừng, ta phải làm chứng, một cách giản dị và trực tiếp về Thiên Chúa đã được Đức Giêsu Kitô mạc khải, trong Thánh Thần ta phải làm nổi bật nên dung mạo Thiên Chúa là một Người Cha đầy yêu thương  Ngài  đã yêu thế gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài, chứ Ngài không phải là một quyền lực vô danh và xa vời nào đó.

Ơn Cứu Ðộ nơi Chúa Kitô là Cốt Lõi của Sứ Ðiệp: : Việc Phúc Âm hóa luôn luôn hàm chứa một công bố rõ ràng rằng nơi Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết và đã sống lại, ơn cứu rỗi đã được ban cho mọi người nhờ ân sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa. “Ơn cứu rỗi của Đức Kitô vượt quá tất cả những giới hạn và sẽ hoàn tất trong vĩnh cửu.

Báo trước Dấu Chỉ Hy Vọng. Việc truyền bá phúc âm hoá, bao gồm: chứa đựng sự tiên báo về một thế giới bên kia, vì đó là định mệnh sâu xa và quyết định của con người. Việc Phúc Âm hóa cũng chứa đựng sự loan truyền niềm hy vọng vào Lời Chúa hứa qua Tân Ước nơi Đức Kitô, sự loan truyền tình yêu Thiên Chúa đối với ta và tình yêu của ta đối với Thiên Chúa, loan truyền một tình yêu huynh đệ đối với mọi người,sự loan truyền về sự mầu nhiệm sự ác và việc tích cực tìm kiếm sự thiện, loan truyền việc tìm kiếm Thiên Chúa qua kinh nguyện, nhất là thờ lạy và tạ ơn, qua sự hiệp thông với Giáo Hội của Đức Kitô,

Đề cập đến Sứ Ðiệp về Việc Giải Phóng: Phúc Âm hóa để ý đến những liên hệ cụ thể và thường xuyên giữa Tin Mừng và đời sống, cá nhân và xã hội của con người. Vì thế việc Phúc Âm hóa bao gồm một sứ điệp minh nhiên, thích nghi với những hoàn cảnh khác nhau, một sứ điệp luôn có tính cách hiện đại về những quyền lợi và những bổn phận của tất cả mọi người, về đời sống gia đình, , về đời sống chung trong xã hội, về đời sống quốc tế, về hòa bình, công bình và phát triển. Việc Phúc Âm hóa cần quan tâm đến việc thăng tiến con người, bởi vì con người cần được Phúc Âm hóa không phải là một hữu thể trừu tượng nhưng gắn liền với những vấn đề xã hội và kinh tế. Và bởi vì chúng ta không thể tách rời bình diện Sáng tạo khỏi bình diện Cứu chuộc.

Việc Giải Phóng theo Phúc Âm phải Tập Trung vào Vương Quốc của Thiên Chúa. Việc giải phóng mà Tin Mừng loan báo  không thể bị giản lược vào chiều kích hạn hẹp của kinh tế, chính trị, xã hội hay văn hóa, nhưng nó phải nhắm tới con người toàn diện, trong mọi chiều kích, cho đến và gồm cả việc hướng đến tuyệt đối. Giáo Hội không muốn: giới hạn sứ vụ của mình vào lãnh vực tôn giáo; tách mình ra khỏi những vấn đề trần thế của con người. Đồng thời,Giáo Hội tái khẳng định nền tảng của ơn gọi thiêng liêng là sứ mệnh tiên quyết của mình. Giáo Hội không chấp nhận  thay thế việc loan báo vương quốc, bằng việc loan báo những thể thức giải phóng thuộc về nhân loại. Giáo Hội liên kết việc giải phóng thuộc về con người với ơn cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô, song Giáo Hội không bao giờ đồng hoá chúng.

nội dung việc Phúc Âm hóa không che lấp tầm quan trọng của những đường lối và những phương tiện

Chương IV : NHỮNG ĐƯỜNG LỐI CỦA VIỆC PHÚC ÂM HÓA

Chứng Từ Ðời Sống: đời sống chứng tá của người tín hữu trong sự hiệp thông trong việc hy hiến cho tha nhân với một nhiệt tình vô hạn, trong việc trung thành với Chúa Giêsu - chứng tá khó nghèo và không dính bén, chứng tá tự do trước những quyền lực thế gian,đó là những phương thế của phúc âm hóa  Vì chưng Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thây dạy

Việc Rao Giảng Sống Ðộng:  Khi Đối diện với vấn nạn của con người hôm nay: không thích nghe, không lãnh hội được những ngôn từ, sống theo một thứ văn minh của ảnh tượng. Tông huấn nhấn mạnh đến tầm mức và sự cần thiết của việc giảng dạy. Vì lời nói luôn luôn hiện thực, nhất là khi nó mang lại sức mạnh của Thiên Chúa

Phụng Vụ Lời Chúa : Phụng vụ được Công Đồng canh tân đã đề cao giá trị của “Phụng Vụ Lời Chúa”. Bài giảng  được lồng vào trong Thánh lễ và được coi như một dụng cụ có giá trị và rất phù hợp cho việc loan báo Tin Mừng. Bởi đó bài giảng phải diễn tả được đức tin sâu xa và lòng yêu mến của thừa tác viên đang rao giảng. Vì vậy bài giảng phải đơn giản, sáng sủa, trực tiếp thích hợp, liên kết sâu xa với giáo lý của Tin Mừng và trung thành với giáo huấn của Giáo Hội. phải được linh động bởi lòng nhiệt thành của một vị tông đồ quân bình, phải đầy lòng cậy trông, có sức nuôi dưỡng lòng tin và đem đến an bình và hiệp nhất.

Huấn giáo: Phương pháp dạy phải thích nghi với lứa tuổi, văn hóa, khả năng của học viên. Phải đào tạo những giảng viên có khả năng. Ngoài ra, việc dạy giáo lý dưới hình thức dự tòng là một công việc cấp bách hiện nay, có nhiều thanh niên và người lớn, nhờ ơn thánh tác động, họ dần dần khám phá ra khuôn mặt của Đức Kitô và cảm thấy cần phải hiến thân cho Ngài.

Sử Dụng Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội: Những phương tiện truyền thông xã hội được sử dụng vào việc phục vụ Tin Mừng có khả năng mở rộng hầu như vô tận, có thể đem Tin Mừng đến cho hàng triệu người.

Tiếp xúc cá nhân: Nhờ những hình thức tiếp xúc cá nhân mà lương tâm cá nhân của con người được chạm tới, được đánh động do lời nói khác thường mà họ nghe được nơi người khác. Đây là một cách mà nhờ đó lương tâm riêng của mỗi người được giao chạm bởi một thế giới hoàn toàn chuyên biệt mà họ lãnh nhận từ một người khác.

Vai Trò các Bí Tích: Ðời sống siêu nhiên này được diễn đạt sống động nơi bảy bí tích, việc Phúc Âm hóa thể hiện tất cả sự phong phú của mình khi thực hiện sự liên lạc thâm sâu nhất giữa Lời Chúa và các Bí tích. Vai trò của việc Phúc Âm hóa là giáo dục trong đức tin để mỗi tín hữu sống các bí tích như là những bí tích đích thực của đức tin.

 

Những hình thức sống đạo bình dân: Việc phúc âm hóa đề cập đó là hình thức sống đạo bình dân. Hình thức sống đạo còn những giới hạn, mở cửa cho nhiều hình thức sai lệch về tôn giáo xâm nhập vào. Cần phải nhạy cảm với vấn đề, phải biết nhận ra những chiều kích nội tâm và những giá trị không thể chối bỏ nơi chúng, phải sẵn sàng giúp đỡ tìm ra những nguyên tắc hướng dẫn lòng đạo đức này.

 

 

Chương V : ĐỐI TƯỢNG CỦA VIỆC PHÚC ÂM HÓA

Việc “Phúc Âm hóa” mang tính cách phổ quát, do đó đối tượng của việc Phúc Âm hóa là tất cả mọi người.

Sự loan báo đầu tiên cho những kẻ xa lạ- cho thế giới khô đạo

Trước hết việc rao giảng Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài cho những kẻ chưa biết đến và kế đó  cho các tình cảnh khô đạo khá phổ biến ngày nay. Sự loan báo đầu tiên này được thực hiện bằng một sinh hoạt phức tạp và đa diện đó là giảng dạy trực tiếp, là nghệ thuật, khoa học, triết học, và cả tình người.

 

Các tôn giáo ngoài kitô giáo

Việc loan báo cũng dành cho một phần lớn nhân loại thuộc những tôn giáo khác mà giáo hội tôn trọng và yêu quí. Đây là vấn đề phức tạp và tế nhị, nhưng mở ra những “chân trời mới” trong việc tiếp xúc với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Giáo hội nghĩ rằng, những người này có quyền biết sự phong phú của mầu nhiệm Đức Kitô (Ep 3,8), đứng trước những biểu lộ của lòng đạo đức tự nhiên đáng kính nhất, Giáo hội vẫn dựa trên sự kiện là đạo của Đức Kitô mà Giáo hội loan truyền, sẽ khách quan đặt con người trong tương quan với chương trình của Thiên Chúa, với sự hiện diện tác động của Người 

Bên cạnh đó Giáo hội vẫn liên lỉ chú ý đến những người đã lãnh nhận đức tin, giáo hội tìm cách củng cố, nuôi dưỡng bằng việc huấn giáo đầy nhựa sống Tin Mừng nhờ một ngôn ngữ thích hợp với thời đại và con người làm cho đức tin của họ trưởng thành. Ngoài ra giáo hội cũng lưu tâm rất nhiều đến các kitô hữu không còn hoàn toàn hiệp thông với mình. Giáo Hội đã ý thức rằng mình sẽ thiếu sót bổn phận cách trầm trọng nếu không chứng tỏ cho các Kitô hữu đó sự viên mãn của mạc khải mà Giáo Hội đang nắm giữ.

Bên cạnh đó Việc phúc âm hóa còn có một mối bận tâm về những người thuộc trào lưu vô tín của thế giới hiện đại những người không sống đạo.  Hoạt động truyền bá Tin Mừng của Giáo Hội không thể bỏ qua hai nhóm này mà đối diện với họ, phải kiên trì tìm ra những phương thế và ngôn ngữ thích hợp để dẫn giải cho họ hoặc trình bày lại cho họ Mạc Khải của Thiên Chúa và niềm tin vào Đức Giêsu Kitô.

Đồng thời Thượng Hội Đồng Giám Mục đã chú ý nhiều đến những cộng đoàn nhỏ, còn gọi là “Cộng đoàn cơ bản”. Cộng đoàn này vừa là nơi nhận Tin Mừng vừa là cộng đoàn rao giảng Tin Mừng. Các cộng đoàn này khai nở hầu như khắp nơi trong Giáo Hội nên cũng khác nhau nhiều tại cùng một vùng hoặc từ vùng này đến vùng khác.

 

Chương VI : NHỮNG NGƯỜI RAO GIẢNG TIN MỪNG

  1. vTruyền giáo là hành vi của giáo hội

Công Đồng cũng đã nói : “Toàn thể Giáo Hội là truyền giáo, việc Phúc Âm hóa là phận vụ căn bản của dân Chúa. Giáo Hội được sai phái đi Phúc Âm hóa thế giới là nhận định gồm hai niềm xác tín. Thứ nhất: Rao giảng Tin Mừng không phải là mộtviệc làm cá nhân, lẻ loi nhưng là liên kết với hoạt động rao giảng Tin Mừng của toàn thể Giáo Hội . Thứ hai: Nếu mỗi ngườirao giảng Tin Mừng nhân danh giáo Hội và giáo hội rao giảng theo lệnh truyền của Chúa thì phải thực hiện công cuộc Tin Mừng hóa trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội và với các chủ chăn.

  1. vGiáo hội phổ quát và giáo hội địa phương

Giáo Hội phổ quát  hiện thân trong các Giáo Hội địa phương được thành lập với một phần nhân loại cụ thể, nói một ngôn ngữ riêng, thừa hưởng một di sản văn hoá, một vũ trụ quan, một qúa khứ lịch sử, một vốn liếng nhân bản nhất định. Các Giáo Hội địa phương vì hòa hợp sâu xa với con người, với cả những khát vọng, những phong phú và giới hạn của nó, với những cách cầu nguyện, yêu thương, với những lối nhìn cuộc đời và thế giới, do đó Giáo Hội địa phương phải hấp thụ những điểm cốt yếu của Tin Mừng rồi trung thực chuyển sang ngôn ngữ mà những người trong xã hội đó hiểu được.

 Điều cần quan tâm ở đây là Việc Phúc Âm hoá sẽ mất đi nhiều sức mạnh và hiệu lực, nếu người ta không để ý đến dân tộc cụ thể, không dùng ngôn ngữ, dấu hiệu, biểu tượng của dân tộc đó đặt ra, không liên kết với đời sống cụ thể của dân tộc mà việc Phúc Âm hóa đang nhắm tới. Bởi đó, Giáo Hội chỉ trở nên phong phú nếu biết lưu tâm cách thích đáng đến những Giáo Hội địa phương. Điều đó cần thiết và khẩn cấp vì đáp ứng được những khát vọng thâm sâu nhất của các dân tộc và của các cộng đoàn xã hội đang muốn càng ngày càng tìm được khuôn mặt riêng của mình.

Có thể nói toàn thể Giáo Hội đều được mời gọi rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, giữa lòng Giáo Hội, chúng ta phải chu toàn những nhiệm vụ rao giảng khác nhau như:

 

  1. vNgười kế vị thánh phêrô

Người kế vị thánh Phêrô, do ý định của Đức Kitô, mang lấy chức vụ ưu việt là giảng dạy chân lý mặc khải. Vì thế, quyền trọn vẹn, tối thượng và phổ quát mà Đức Kitô đã trao phó cho Vị đại diện của Ngài để điều khiển công việc mục vụ của Giáo Hội được Đức Giaó Hoàng đặc biệt hành xử trong hoạt động rao giảng và sai đi rao giảng Tin Mừng Cứu rỗi.

 

  1. vKế đến là các giám mục và linh mục

Với tư cách là những vị chủ chăn trong Giáo Hội, người kế vị thánh Phê-rô cùng với các Giám Mục, linh mục, phó tế được mời gọi ý thức về nhiệm vụ Tin Mừng hóa hơn mọi thành phần khác trong Giáo Hội. Các Ngài đã có trách nhiệm gìn giữ nguyên vẹn nội dung đức tin công giáo, dạy dỗ chân lý mạc khải, cử hành các bí tích và rao truyền Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.

  1. vTiếp đến các tu sĩ

Các tu sĩ phải xem đời sống tận hiến của mình như một phương thế ưu tiên cho việc rao giảng Tin Mừng. Bằng chứng tá thầm lặng của sự khó nghèo và từ bỏ, của sự trong sạch và tinh tuyền, của sự bỏ mình trong đức vâng lời, đời sống của họ trở nên lời rao giảng hùng hồn khả dĩ đánh động ngay cả những người thiện chí ngoài Kitô giáo đang nhạy cảm về một số giá trị góp phần cùng với hàng giáo phẩm trong Giáo Hội làm cho công cuộc Tin Mừng hóa của Giáo Hội ngày một thêm phong phú. Đồng thời chứng tá đó cũng là lời mời gọi vọng lên cho thế giới và cho chính Giáo Hội. Ngoài ra còn một thành phần không thể không kể đến trong sứ vụ truyền giảng Tin Mừng đó là giáo dân.

  1. vGiáo dân

 Giáo hội là dân Thiên Chúa, với ơn gọi đặc biệt, người giáo dân sống giữa lòng đại chúng hay điều khiển những công việc trần gian khác nhau, vì thế, họ phải thực hiện một hình thức truyền giáo đặc biệt. Hoạt động truyền giáo của giáo dân là cả một thế giới rộng rãi và phức tạp của chính trị, xã hội, kinh tế và cả văn hóa, khoa học nghệ thuật, .... Có nhiều giáo dân thấm nhuần Tin Mừng và thực sự dấn thân thì càng góp phần xây dựng nước Chúa và sự cứu rỗi trong Đức Kitô. Bên trong việc Tin Mừng hóa của giáo dân phải kể đến hoạt động Tin Mừng hóa của gia đình, vì từ nơi gia đình ta bắt gặp lại các khía cạnh của Giáo Hội, do đó mọi phần tử của gia đình đều Tin Mừng hóa và được Tin Mừng hóa. Ngoài ra, cần lưu ý đặc biệt đến những người trẻ. Sự gia tăng về số lượng và sự hiện diện ngày càng nhiều của họ trong xã hội, những vấn đề đang vây lấy cần giúp họ hiểu biết và sống Tin Mừng. Và một khi họ đã được đào tạo kỹ càng về đức tin và cầu nguyện, họ sẽ trở nên những tông đồ cho giới trẻ.

 

 

 

Chương VII: TINH THẦN CỦA VIỆC RAO GIẢNG TIN MỪNG (số 74-80)

1. Dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần

Tông huấn số 75 xác định: “Không bao giờ có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có sự tác động của Chúa Thánh Thần”. Thánh Thần đã xuống trên Chúa Giêsu Nazarét lúc Ngài chịu phép rửa,   trong  ngày lễ Hiện xuống,Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần là tác nhân chính của việc rao giảng Tin Mừng  Ngài hoạt động nơi mỗi người truyền giảng và tâm hồn của những người nghe. Ngài là tác nhân chính của việc rao giảng Tin Mừng đồng thời là chung cục của việc rao giảngTin mừng. Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1974 đã nhấn mạnh rất nhiều vào vị thế của Chúa Thánh Thần trong việc Phúc Am hóa

2. Sống chứng tích đời sống

Hơn bao giờ hết, chứng tích đời sống đã trở nên một điều kiện thiết yếu cho hiệu quả thâm sâu của việc rao giảng. Trong số 76 Đức paul VI nhắn nhủ: Những cộng tác viên của Giám Mục hãy cổ võ đời sống thiêng liêng của các cộng đoàn địa phương,  những người tận hiến làm chứng cho các mối phúc thật, các gia đình công giáo, những người trẻ và những người trưởng thành, tất cả những người đang làm việc trong bất cứ ngành nghề nào, những người lãnh đạo, cả những người nghèo khổ, tất cả mọi giáo dân đang ý thức về vai trò rao giảng Tin Mừng để phục vụ Giáo Hội hoặc giữa lòng xã hội và thế giới. Lòng nhiệt thành truyền giáo phải được xuất phát từ sự thánh thiện thật sự của một cuôc sống được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện, và nhất là bằng lòng yêu mến đối với phép Thánh Thể.

3. Xây dựng sự hiệp nhất và phục vụ chân lý

Là những người rao giảng Tin Mừng, chúng ta phải đưa ra cho các tín hữu của Đức Kitô, hình ảnh của những con người trưởng thành trong Đức tin, có khả năng gặp nhau bên trên những căng thẳng thực tế, nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý cách chân thành và vô vị lợi. Đây là dấu chỉ hiệp nhất giữa các Kitô hữu là đường lối và khí cụ của việc Phúc Âm hóa. Đức paul VI mong muốn: phải cương quyết cộng tác hơn với các anh em Kitô hữu mà chúng ta chưa hiệp nhất cách đầy đủ, để dựa trên bí tích rửa tội và di sản đức tin chung, ngay từ bây giờ mọi người đều hợp tác trong công cuộc rao giảng Tin Mừng và cùng nhau làm chứng cho Đức Kitô trong thế giới một cách rộng rãi hơn.

Là nhà rao giảng Tin Mừng phải tôn trọng chân lý, phải là người dám hy sinh đến độ quên mình và đau khổ không ngừng để không ngừng tìm kiếm chân lý mà họ phải truyền đạt cho người khác. Người đó không bao giờ được phản bội hay che đậy chân lý vì muốn làm vui lòng người nghe, vì muốn gây ngạc nhiên, vì muốn tạo nên giựt gân, hay vì muốn lập dị háo danh. Người đó không được chối bỏ chân lý, không làm lu mờ chân lý mạc khải vì nhác tìm kiếm, vì ngại phiền phức hay vì sợ hãi. Người đó không được phép khinh thường việc nghiên cứu. Người đó phải phục vụ chân lý cách quảng đại mà không kiềm chế chân lý.

 

5. Do tình yêu và sự nhiệt tâm

Công việc Phúc Âm hóa đòi hỏi người rao giảng phải có một tình huynh đệ luôn lớn mạnh đối với những người mình truyền giảng. Tôn trọng tiết điệu của họ mà ta không có quyền cưỡng ép. Tôn trọng lương tâm và xác tín của họ để không cưỡng bách họ, biết lo lắng không làm tổn thương người khác, biết nỗ lực truyền đạt cho những Kitô hữu những điều chắc chắn vững vàng vì ăn sâu trong Lời Chúa.

Và với sự nhiệt tâm được khởi hứng từ lòng nhiệt thành của các vị rao giảng đã hiến cả cuộc đời cho việc tông đồ.  Tông huấn mời gọi những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng phải tránh lối lý luận ngụy biện có thể làm chúng ta trốn tránh việc rao giảng Tin Mừng. Hãy bảo tồn niềm vui dịu dàng và niềm an ủi được rao giảng, ngay cả lúc phải gieo trong nước mắt sống để cho Nước Trời được rao giảng và Giáo Hội được ăn sâu vào giữa lòng thế giới.

 

 

Chương VIII: KẾT LUẬN

Tông huấn Loan báo Tin mừng Nuntiandi Evangelii đã nhắc lại lời mời gọi tha thiết của Đức Phaolô VI về việc Loan Báo Tin Mừng đối với anh em Kitô giáo cũng như anh em ngoài Kitô giáo. Ngài ước mong việc Loan Báo Tin Mừng sẽ làm cho hàng triệu tâm hồn hòa giải với Thiên Chúa và hân hoan đón chào kỉ nguyên mới và cũng là ngưỡng cửa năm thứ 2000 của Kitô giáo.

Bên cạnh đó, Tông huấn cũng đề cao vai trò của Mẹ Maria trong công cuộc Loan Báo Tin Mừng. Đức Phaolô VI đã sánh ví Mẹ như ngôi sao sáng của việc Phúc Âm hóa. Chính nhờ ánh sao sáng là Mẹ mà Giáo Hội được dẫn dắt, được canh tân và vâng theo mệnh lệnh của Chúa, sẵn sàng dấn thân trong công cuộc rao giảng Tin Mừng.

 

V. NHỮNG NỀN TẢNG THẦN HỌC VÀ CÁCH THỨC THỰC HIỆN SỨ VỤ

  1. 1.NHỮNG NỀN TẢNG THẦN HỌC

Nền tảng thần học cho hoạt động sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh khởi đi từ Chúa Giêsu: “Ta phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Lc 4,43). Người đã áp dụng cho chính mình lời tiên tri Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18 ; x. Is 61,1) (số 6). Thế nhưng, trước Vatican II, với quan niệm: “Ngoài Hội Thánh không có ơn cứu độ”, Hội Thánh tự đồng hóa mình với Nước Thiên Chúa nên chỉ gói trọn trong phạm vi hạn hẹp coi triều đại Nước Thiên Chúa tương đương với một xã hội tiến bộ. Hội Thánh chỉ quan tâm mở rộng số lượng và tập trung con người vào sự hiện trị của Thiên Chúa như một thực tại tương lai mà không quan tâm đến cuộc sống hiện tại. Do đó, khi đối diện với các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau Hội Thánh đứng trước nhiều thách đố trong việc loan báo Tin Mừng. Bởi thế, ý thức sứ mệnh rao giảng Tin Mừng trước những thách đố đặt ra Giáo Hội khởi sự Phúc Âm hóa chính mình để lắng nghe điều mình Tin, và luôn luôn cần được Phúc Âm hóa nếu muốn giữ được vẻ tươi mát, sinh khí và sức mạnh để loan báo Tin Mừng. Đó chính là con đường trở lại và đổi mới liên tục để thế giới dễ chấp nhận Tin Mừng (số 15). Vì vậy, Vatican II đã mở ra một hướng suy tư mới về thần học sứ vụ, đòi hỏi Hội Thánh cần có hành động và phương pháp mới dựa trên nền tảng thần học cho phù hợp với bối cảnh của xã hội hôm nay qua tông huấn: “Loan Báo Tin Mừng”.

  1. vNền tảng Thần Học Ba Ngôi (số 7, 8, 9, 26, 71)

Sứ vụ về cơ bản đặt nền trên Mầu nhiệm Ba Ngôi trong sự nhiệm xuất, một Thiên Chúa tự thông ban, vì vậy sứ vụ không phải là mở rộng Giáo Hội cũng không phải là thực thi một mệnh lệnh thiếu nền tảng thần học. Nhưng đúng hơn sứ vụ là thành phần toàn vẹn trong hoạch ngàn đời của Thiên Chúa đối với thế giới. Tông huấn Loan Báo Tin Mừng số nhìn nhận rằng sứ vụ của Chúa Giêsu được nhận lãnh từ Chúa Cha. Chúa Cha đã sai Ngài đến để công bố tin vui về việc hoàn tất những lời hứa và giao ước của Thiên Chúa. Và chính Thánh Thần đã ngự trên Ngài và xức dầu tấn phong chính. Ngoài ra trong(số 26) có nhắc đến sự liên kết chặt chẽ của Ba Ngôi Thiên Chúa như việc Rao giảng Tin Mừng, trước hết là làm chứng, một cách giản dị và trực tiếp về Thiên Chúa đã được Đức Giêsu Kitô mạc khải, trong Thánh Thần.

  1. vNền Tảng Kitô Học Của Sứ Vụ

Đức Giêsu là Đấng Tin Mừng hóa đầu tiên, vĩ đại nhất và đến cùng. Ngài rao giảng bằng lời nói và việc làm, bằng những dấu chỉ và phép lạ, nhất là bằng cái chết và sống lại và việc sai phái Thần Chân lý đến, những điều này được nói đến ở các  (số 7-8, 9, 11,12).

 

  1. v

Trong (số 9) có đề cập đến: Ơn cứu độ là nòng cốt và trung tâm của Tin Mừng. Ơn cứu độ là hồng ân lớn lao của Chúa giải thoát họ khỏi mọi áp búc, nhất là giải thoát họ khỏi tội lỗi và thần dữ trong niềm vui nhận biết Thiên Chúa và được Ngài biết tới, được thấy Ngài, được hiến dâng cho Ngài. Bên cạnh đó, việc Phúc Âm hóa luôn luôn hàm chứa một công bố rõ ràng rằng nơi Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết và đã sống lại, ơn cứu rỗi đã được ban cho mọi người như ân sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa ( số 27)

  1. vNền Tảng Thần Khí Trong Sứ Vụ

Vai trò của Chúa Thánh Thần ngay từ khi khởi đầu sứ vụ của Đức Giê su nơi trần gian trong(số 6) của tông huấn có đề cập. Trong  ( số 18) Giáo Hội Phúc Âm hóa, khi chỉ nhờ sức mạnh thần linh của sứ điệp mà Giáo Hội công bố. (Số 75) chỉ sau khi Thánh Thần đến vào ngày lễ Hiện xuống, các tông đồ mới đi khắp chân trời thế giới để khởi sự công cuộc truyền giảng Tin Mưng của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần họat động trong mỗi nhà truyền giảng Tin Mừng, Ngài sửa soạn tâm hồn của những người nghe để họ mở rộng đón nhận Tin Mừng và nước trời đang được loan báo. Có thể nói Chúa Thánh Thần là tác nhân chính và chung cục của việc rao giảngTin mừng

 

  1. vThần học về cánh chung (số 13,27,28)

Tông huấn Loan Báo Tin Mừng đã đưa ra một lối nhìn khác hơn về thực tại cánh chung khi nói Tin Mừng về Triều đại đang đến và đã bắt đầu ở đời này cho mọi người thuộc mọi thời đại  nhưng lại được hoàn thành trong vĩnh cửu. Việc Phúc Âm hóa chứa đựng sự tiên báo về một thế giới bên kia, vì đó là định mệnh sâu xa và quyết định của con người, là sự loan truyền niềm hy vọng vào Lời Chúa hứa qua Tân Ước nơi Đức Kitô, là sự loan truyền về sự mầu nhiệm sự ác và việc tích cực tìm kiếm sự thiện.

  1. vNền Tảng Giáo Hội của Sứ Vụ

Số 5,14,16 của tông huấn khẳng định: trình bày sứ điệp Tin Mừng chính là bổn phận đòi buộc Giáo Hội, do Chúa Giêsu truyền lại, để nhân loại có thể tin và được cứu thoát. Rao giảng Tin Mừng là ơn huệ và ơn gọi riêng của Giáo Hội, là chân tính sâu xa nhất của Giáo Hội

  1. v

(số 29)Việc Phúc Âm hóa để ý đến những liên hệ cụ thể và thường xuyên giữa Tin Mừng và đời sống, cá nhân và xã hội của con người.Vì việc Phúc Âm hóa bao gồm một sứ điệp minh nhiên, thích nghi với những hoàn cảnh khác nhau, một sứ điệp luôn có tính cách hiện đại về những quyền lợi và những bổn phận của tất cả mọi người, về đời sống gia đình, vì không có gia đình thì cá nhân không thể phát triển được, về đời sống chung trong xã hội, về đời sống quốc tế, về hòa bình, công bình và phát triển

  1. vTông huấn cũng dựa trên nền tảng của Thần học giải phóng (số 30, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39)

Sự giải phóng mà Tông Huấn hướng tới không thể chỉ thu gọn lại trong chiều kích kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa hạn hẹp, nhưng nó phải nhắm tới con người toàn diện, trong toàn bộ các kích thước của con người, trong hướng mở ra về phía tuyệt đối, ngay cả về phía tuyệt đối của Thiên Chúa, một sự giải phóng theo Tin Mừng (số 33) và phải quy về Nước Thiên Chúa (số 34) một sự giải phóng loại  trừ bạo lực (số 37). Bao lâu mà mục đích tối hậu của nó không phải là sự cứu rỗi và hạnh phúc trong Thiên Chúa thì những cách giải phóng đó đều hàm chứa mầm mống của sự tự hủy và xa lìa lý tưởng mà nó đề ra (số 35) vì thế cần có tự do tôn giáo (số 39) sự cộng tác của Giáo Hội (sô 38) và cần có sự trở lại của con tim và lối nhìn của những người đang sống trong những cơ cấu đó hoặc điều khiển chúng (số 36)

  1. vNgoài ra tông huấn còn dựa trên nền tảng của Thần học về thăng tiến con người (số 31)

Thật vậy giữa việc Phúc Âm hóa và việc thăng tiến con người – phát triển, giải phóng – vốn có những mối quan hệ sâu xa. Những quan hệ có tính cách nhân văn, bởi vì con người cần được Phúc Âm hóa được gắn liền với những vấn đề xã hội và kinh tế. Những quan hệ này có tính cách thần học, vì không thể tách rời bình diện tạo thành với bình diện Cứu chuộc mà bình diện này đụng tới hoàn cảnh cụ thể trong đó phải đánh dẹp sự bất công và phải khôi phục công lý (số 31). Đây là điểm mới mẻ so với cố gắng tách con người ra khỏi các mối liên hệ thực tại đời sống. 

  1. vTông huấn cũng dựa trên nền tảng thần học về đối thoại liên tôn và đại kết –(số 53, 54)

Tin vào ơn cứu độ phổ quát và sứ vụ xuất phát từ Thiên Chúa cũng như sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong thế giới, tông huấn đề cập rằng : Giáo Hội tôn trọng và quí yêu, những tôn giáo ngoài Kitô vì những tôn giáo này biểu hiện sống động tâm hồn của các tập thể nhân loại đồng thời mang theo mình dư âm của hàng ngàn năm tìm kiếm Thiên Chúa. Giáo Hội nhng mở ra những “chân trời mới” trong việc tiếp xúc với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Giáo hội nghĩ rằng, những người này có quyền biết sự phong phú của mầu nhiệm Đức Kitô (Ep 3,8), Giáo hội  dựa trên sự kiện là đạo của Đức Kitô mà  loan báo Đức Giêsu Kitô cho những người ngoài Kitô giáo. Đồng thời, Giáo Hội công giáo cũng lo nghĩ rất nhiều về các kitô hữu không hoàn toàn hiệp thông với mình, trong khi cùng với họ chuẩn bị sự hiệp nhất theo ý Đức Kitô, và chính là để thực hiện sự hiệp nhất trong chân lý (số 54)    tái lập sự hiệp thông giữa những người có đức tin, đã nhận biết và đón nhận Đức Kitô như là Chúa của lòng thương xót, và là Đấng giải phóng mọi người và nối ết họ trong Thánh Thần Tình Yêu và Chân Lý”.

Có khả năng gặp nhau bên trên những căng thẳng thực tế, nhờ việc cùng nhau tìm kiếm chân lý cách chân thành và vô vị lợi, dấu chỉ hiệp nhất giữa các Kitô hữu là đường lối và khí cụ của việc Phúc Âm hóa, phải cương quyết cộng tác hơn với các anh em Kitô hữu mà chúng ta chưa hiệp nhất cách đầy đủ, để dựa trên bí tích rửa tội và di sản đức tin chung, ngay từ bây giờ mọi người đều hợp tác trong công cuộc rao giảng Tin Mừng và cùng nhau làm chứng cho Đức Kitô trong thế giới một cách rộng rãi hơn tôn trọng tình trạng tôn giáo và tinh thần của những người mà ta rao giảng. Tôn trọng tiết điệu của họ mà ta không có quyền cưỡng ép. Tôn trọng lương tâm và xác tín của họ để không cưỡng bách họ.79

 

  1. vNền tảng Thánh Mẫu Học (số 82)

Trong số cuối cùng tông huấn đề cập đến vai trò của Mẹ Maria đã chủ tọa buổi cầu nguyện khởi đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Và trong việc phúc âm hóa Mẹ là ngôi sao dẫn đường cho công cuộc rao giảng Tin Mừng mỗi ngày một thêm canh tân mà Giáo Hội phải cổ võ và thực hiện, trong thời kỳ đầy khó khăn và hy vọng.

 

  1. 2.CÁCH THỨC THỰC HIỆN

Giáo Hội luôn xác tín: “Loan báo Tin Mừng là một hồng ân và là ơn gọi riêng của Hội Thánh, là căn tính sâu xa nhất của Hội Thánh” (EN 41). Thế nên, mỗi người tín hữu đều nhận được hồng ân và sứ mạng cao quý là loan báo Tin Mừng. Nhưng với một xã hội đầy phức tạp này, chúng ta phải loan báo Tin Mừng như thế nào cho phù hợp. Chúng ta phải có những cách thức thực hiện cụ thể như thế nào để cho người khác đón nhận Tin Mừng chúng ta loan báo. “Phần bạn hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn phận vụ mình” (2Tm 4,5). Trước những thao thức loan báo Tin Mừng, trong Tông huấn loan báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi) của Đức Giáo Hoàng Phaolô IV, có trình bày bốn  cách thức là loan báo bằng cuộc sống và bằng lời là hội nhập văn hóa, đối thoại và giải phóng.

 

1.1.          Loan Báo Tin Mừng bằng cách hội nhập văn hóa (EN, 63):

Văn kiện nhấn mạnh những cá nhân là đối tượng của sứ vụ, những người này luôn luôn ở trong một môi trường, văn hóa đặc biệt và cộng đoàn thực sự. Tin Mừng được tiếp cận do những con người gắn liền với một nền văn hóa. Bởi đó Tin Mừng và Phúc Âm hóa có thể xâm nhập vào tất cả mà không lệ thuộc vào nền văn hóa nào.  Vì thế sứ vụ loan báo Tin Mừng cũng phải quan tâm đến việc hội nhập văn hoá, để Phúc Âm thấm vào các nền văn hóa và sinh hoa kết quả. Đó không phải là điều mới mẻ, nhưng đó chính là cách thức Chúa Giêsu đã thực hiện trong cuộc đời rao giảng của mình.

 

1.2.          Loan báo Tin Mừng bằng cuộc sống và bằng lời

  1. vLoan báo Tin mừng bằng cuộc sống

Việc loan báo Tin Mừng đồi hỏi mỗi người tín hữu phải ra đi, đến, ở và hội nhập văn hóa với những nơi mình sống. Nhưng việc loan báo Tin Mừng ấy sẽ trở nên vô ích nếu như chúng ta không sống và làm chứng bằng chính cuộc sống của mình về một Thiên Chúa tình yêu qua sự cảm thông và hy hiến cho tha nhân với một nhiệt tình vô hạn. Hiện nay “con người tận hiến mong nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có lắng nghe các thầy dạy là bởi vì các vị thầy này là chứng nhân” (2.10.1974.AAS,66).Truyền thống các Tông đồ đã để lại cho chúng ta, nhất là nơi Phêrô, vị thủ lãnh của Giáo Hội đã diễn tả điều này khi chủ trương sống gương lành, trong sạch,yêu thương để chinh phục những tâm hồn cứng lòng (1Pr 3,1). Thật vậy Giáo Hội trong mọi thời đại đã luôn sống làm chứng cho nhân loại về một đời sống trung thành với Đức Giêsu , với những giáo huấn của Chúa. Nhất là một đời sống về sự khó nghèo, không dính bén (EN41), làm chứng cho Chúa trong cách thực hành phụng vụ Lời Chúa, qua các Bí tích(EN47) . Việc làm chứng của Giáo Hội là luôn đồng hành với cuộc sống của con người trong “phẩm tính sâu xa nơi Thiên Chúa: phẩm tính làm cha, làm Đấng quan phòng, hằng yêu thương, hiện diện” (EN48). Ngày nay, sự truyền giáo còn được thể hiện rộng rãi qua lòng đạo đức của các tín hữu, qua thái độ nhẫn nại, cảm nhận thập giá trong đời sống thường nhật, không dính bén, cởi mở với người khác, dấn thân (EN48). Giáo hội không làm gì khác hơn là chỉ cho người tín hữu động lực đích thực của việc thực hiện chính bản thân mình… cuộc sống sẽ trưởng thành và sung mãn hơn, khi được trao ban để đem lai cuộc sống cho kẻ khác” (Evangelii Gaudium. 10)

Đồng thời tôn trọng tình trạng tôn giáo và tinh thần của những người mà ta rao giảng. Tôn trọng tiết điệu của họ mà ta không có quyền cưỡng ép. Tôn trọng lương tâm và xác tín của họ để không cưỡng bách họ.79

 

  1. vLoan báo Tin Mừng bằng lời

Bài giảng như là một phương tiện quan trọng và rất thích thuận trong việc truyền bá Phúc Âm (EN43), Và Giáo Hội cũng đưa ra lời khuyên: không được bỏ việc giảng thuyết trong phụng vụ của tất cả các Bí tích, trong những nghi thức á bí tích phụng vụ, và trong những cuộc hội họp của tín hữu, bài giảng sẽ luôn là dịp tốt lành để thông truyền Lời Chúa (EN 43). Việc thông truyền Tin Mừng bằng lời không thể bỏ qua rao giảng bằng phương tiện dạy giáo lý . “Thành phần tri thức, đặc biệt trẻ em và giới trẻ cần học biết qua việc dạy giáo khoa về đạo lý những giáo huấn căn bản, nội dung sống động về sự thật đã được Thiên Chúa chuyển đạt đến chúng ta” (EN44). Qua việc học hỏi giáo lý, muôn vàn giới trẻ cũng như người lớn, thành phần được Thiên Chúa đánh động, dần dần khám phá ra dung nhan của Đức Kitô và cảm thấy nhu cầu cần phải hiến mình cho Thiên Chúa (EN44).

Việc đưa giáo lý vào trong tiến trình loan báo tin mừng là điều hết sức cần thiết. Có thể nói, đây cũng là một phương cách loan báo tin mừng hữu hiệu, và chắc chắn nỗ lực Tin Mừng hóa sẽ có hiệu quả hơn nhiều trên bình diện dạy giáo lý trong nhà thờ, trong các trường học khi có thể được hoặc trong các gia đình Ki-tô giáo. Cần đào tạo những người dạy tốt để việc giảng dạy sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

Bên cạnh đó, trong giáo hội toàn cầu có một con số không nhỏ những Kitô hữu đã được rửa tội nhưng hiện nay không sống đức tin, và không muốn chứng tỏ mình là Kitô hữu. Đối với những trường hợp này thì việc tái loan báo tin mừng là vô cùng cần thiết.

Ngoài ra, đối với các cộng đoàn tu trì, sứ vụ loan báo tin mừng luôn được giành một vị trí ưu tiên đặc biệt. Hội dòng tạo mọi điều kiện thuận lợi về nhân sự, về cơ sở vật chất cũng như về phương tiện để công cuộc loan báo tin mừng đạt kết quả cao. Và một điều thiết thực hiện nay đó là việc chuẩn bị xa cho sứ vụ quan trọng này. 

1.3.          Loan báo bằng việc giải phóng

Tông huấn nhấn mạnh đến sự phát triển, hòa bình, tự do, giải phóng. Sự giải phóng mà Tông huấn hướng tới là con người toàn diện, trong toàn bộ các kích thước của con người, trong hướng mở ra về phía tuyệt đối. Phúc Âm hóa sẽ không hòan hảo nếu không để ý đến những liên hệ cụ thể và thường xuyên giữa Tin Mừng và đời sống, cá nhân và xã hội của con người. Vì thế việc Phúc Âm hóa bao gồm một sứ điệp minh nhiên, thích nghi với những hoàn cảnh khác nhau, một sứ điệp luôn có tính cách hiện đại về những quyền lợi và những bổn phận của tất cả mọi người, về đời sống gia đình, vì không có gia đình thì cá nhân không thể phát triển được, về đời sống chung trong xã hội, về đời sống quốc tế, về hòa bình, công bình và phát triển. Giáo Hội có bổn phận loan báo sự giải phóng của hàng triệu sinh linh, trong đó nhiều người là con cái Giáo Hội. Giáo Hội có bổn phận giúp đỡ khai sinh sự giải phóng này, phải minh chứng cho nó và làm cho nó hoàn tất. Điều đó không phải là xa lạ đối với việc Phúc Âm hóa.

Bên cạnh đó Giáo Hội lấy đức tin soi sáng cho Người Kitô hữu phải lấy học thuyết“giải phóng”, lấy tình yêu huynh đệ làm nguyên tắc làm nền tảng cho khôn ngoan và kinh nghiệm để rồi diễn đạt một cách cụ thể trong các hoạt động, các tham gia và các dấn thân.

1.4.          Loan báo Tin Mừng bằng việc đối thoại

Giáo Hội tôn trọng và quí yêu, những tôn giáo ngoài Kitô và mở ra những “chân trời mới” trong việc tiếp xúc với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Tái lập sự hiệp thông giữa những người có đức tin, đã nhận biết và đón nhận Đức Kitô

 

VI. NHẬN ĐỊNH, GỢI Ý VÀ VIỆC THỰC HÀNH SỨ VỤ TẠI VIỆT NAM

A. NHẬN ĐỊNH:

Giáo Hội Việt Nam với Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng

Như đã trình bày ở phần trước: Evangelii Nuntiandi được ban hành năm 1975, vào lúc nhà nước Việt Nam vừa ra khỏi cuộc chiến, và Giáo Hội của chúng ta đang thấy mình ở giữa bao ngổn ngang và đang đối mặt với trập trùng sóng gió. Vì thế, âm hưởng của Evangelii Nuntiandi khá nhạt mờ. Với thời gian, Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng mà Đức Phaolo VI đã để lại cho Giáo Hội mang một kim chỉ nam tuyệt vời cho mọi thời đại. Với 82 số gói trọn những điều mà Công Đồng Vaticano II muốn triển khai.

Thực tế, trăn trở của Giáo Hội Việt Nam là mấy chục năm qua công cuộc truyền giáo tại Việt nam không mấy hiệu quả. Đó là điều mà chúng ta phải xem xét lại: Đâu là lý do và vấn đề đặt ra cho sứ vụ loan báo Tin Mừng? Phải chăng Tin Mừng chúng ta đang loan báo cho anh chị em đang sống xung quanh chúng ta chưa đủ men để bột có thể dậy men?

Hiện nay, tỷ lệ người Công Giáo so với dân số hiện nay đang giảm sút. Đó là tình trạng báo động mà mỗi người Kitô hữu Việt Nam phải suy nghĩ lại cách sống và cách loan Báo Tin Mừng của mình. Tình trạng trên xảy ra, có thể do cách diễn tả sứ điệp niềm tin Kitô giáo, phng cách sống đạo của người Ki tô hữu và một số đường lối cũ xưa của Giáo Hội không đáp ứng được nhu cầu tâm linh đã thay đổi của con người thời đại.

Xã hội Việt Nam đang thay đổi với tốc độ nhanh, Nhà Nước mở cửa để nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh. Toàn xã hội đang được công nghiệp hóa, kỹ nghệ hóa, đô thị hóa,...khiến đời sống nâng cao hơn, nhưng con người lại bận rôn hon rất nhiều. Trước thực tế, Giáo Hội Việt Nam thấy mình cần những thay đổi những gì có thể thay đổi và được phép thay đổi để thích ứng với nhu cầu tâm linh của người thời đại...

Vậy phải loan truyền cho những ai và loan truyền như thế nào?

Việc Loan Báo Tin Mừng là cho tất cả mọi người, mọi nền Văn hóa, mọi Tôn giáo, mọi Quốc gia. Tuy nhiên, cũng không quên việc củng cố cho sự chín chắn Đức tin của những tín hữu trước những thách đố của thời đại. Cũng thế, việc phúc âm hóa không phải là việc riêng lẻ của một người nào nhưng là của toàn Giáo Hội.

Ngoài ra, tinh thần của việc phúc âm hóa cũng là một trong những điểm quan trọng của Tông Huấn. Vì chưng nó đòi hỏi chính người rao giảng phải có tấm lòng rộng mở để đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và trở nên khí cụ của ngài, sẵn sàng vâng theo ý Ngài.

Việc Loan Báo Tin Mừng của Hội Dòng cần được trải rộng mọi ngõ ngách của con người như phục vụ trong các bệnh viện, trạm y tế, nhà thuốc, nhà hưu dưỡng, hướng đến người nghèo, các mái ấm cho người lầm lỡ, mở nhà nội trú, trung tâm dạy nghề cho các anh chị em các dân tộc...Người tu sĩ như khí cụ sống động được sai đi vào đời sống chứng tá, loan truyền Tin Mừng của Đức Kitô bằng đời sống dấn thân phục vụ, chiếu sáng sự thánh thiện của Thiên Chúa bằng sự hiện diện của mình qua đời sống khổ chế trong cô tịch và lao động, cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo nơi các Hội Dòng Chiêm niệm. Tuy vậy, nhìn chung các Hội Dòng cũng gặp phải những khó khăn thực tại: Thiếu cơ sở vật chất, thiếu nhân sự có tính chuyên môn để phục vụ một số lãnh vực đặc biệt trong các trung tâm người Siđa, người phong cùi, phục vụ các anh chị em dân tộc...

Ngày nay, khi cảnh vực sống của nhân loại đang biến đổi, Giáo Hội cần làm gì?

Giáo hội cần dùng sức mạnh của Tin Mừng: Lời Chúa và Tình yêu của Chương Trình Cứu Độ, mà đi ngược dòng những tiêu chuẩn phán đoán, những giá trị nhân đạo, những bận tâm chính yếu, những trào lưu tư tưởng, những mẫu mực sống của nhân loại giúp củng cố, nâng đỡ và như là bảng chỉ dẫn cụ thể con đường sứ vụ mà mỗi người đang hướng tới. Tông Huấn còn là cánh cửa mở cho sứ vụ Giáo Hội luôn mãi tiếp diễn trong suốt hành trình dương thế này cho tới ngày Giáo Hội được hoàn trọn trong Đức Kitô.

Từ những nét chính yếu và nhìn vào thực trạng cuộc sống hôm nay chúng ta có thể đưa ra một vài gợi ý để bước tiếp trong dòng chảy Sứ vụ của Giáo Hội.

 

B. MỘT VÀI GỢI Ý CHO VIỆC THỰC HÀNH SỨ VỤ TẠI VIỆT NAM

Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam, cách riêng là Đại Hội Dân Chúa diễn ra tại Sài gòn, từ ngày 21 -> 25 /11/2010. Đại hội đưa ra nhiều giải pháp, nhiều mô hình đề xuất cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt nam như: : “Mục vụ Nhà trẻ”, “Mục vụ Nhà đất”, “Mô hình Giáo Hội Gia đình”, “Mô hình Giáo Hội Tham gia”… Tuy nhiên, những giải pháp trên chỉ là ở vị thế phụ thuộc chứ chưa thực sự đem lại cho dân Chúa một hướng đi căn bản, dù đã đưa ra được hướng đi khác mang tính chiến lược và nền tảng hơn, đó là việc Giáo Hội phải tái Phúc Âm hóa chính mình, Giáo Hội phải phát xuất lại từ Đức Kitô. Vậy chúng ta có thể làm gì nơi nơi Giáo xứ và nơi các Hội Dòng, Hội Đoàn, trong các Gia đình:

  1. 1.Xây dựng ý thức Loan Báo Tin Mừng nơi mọi thành phần dân Chúa

Trong các thánh lễ, có ý chỉ cho việc làm chứng nhân Đức tin và Loan Báo Tin Mừng. Các hội đoàn, các lớp giáo lý đưa việc cầu nguyện và công tác Loan Báo Tin Mừng vào chương trình hoạt động của mình, gây quỹ truyền giáo cho giáo xứ. Bên cạnh đó, mỗi gia đình Kitô hữu hướng về một gia đình lương dân, hay một gia đình bỏ đạo đến với - sống cùng, cầu nguyện làm chứng và Loan Báo Tin Mừng cho họ. Nhất là trong năm Thánh Tân Phúc Âm Hóa đời sống Giáo Xứ và cộng đoàn sống đời Thánh Hiến.

  1. 2.Bồi dưỡng khả năng loan báo tin mừng cho các tín hữu và tái loan Báo Tin Mừng cho người khô khan:

Hình thành một ban chuyên trách- trực thuộc hội đoàn giáo xứ- để lo việc Loan Báo Tin Mừng tại mỗi Giáo xứ, Giáo họ, Cộng đoàn. Phối kết hợp với các đoàn thể khác (Legio, bác ái xã hội…) chia sẻ cuộc sống, tạo môi trường gần Chúa, huynh đệ với anh chị em công nhân di dân, thành phần bỏ đạo, nguội lạnh, bất mãn…để có phương hướng tiếp xúc và tìm cách nói về Chúa cho họ, đào tạo những người chuyên trách này về Giáo Huấn Của Giáo Hội, học hỏi các sáng kiến của liên hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nói riêng.

 

  1. 3.Hội nhập Văn Hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác:

 

Cùng với Thế giới, Xã hội Việt Nam thay đổi không ngừng, nên não trạng, quan niệm, lối suy nghĩ, cách sống cũng khác xưa khá nhiều. Trước dấu chỉ thời đại phải có sự thích nghi, hội nhập văn hóa mang tính sáng tạo và được thời đại hóa.

 

Phổ biến và học hỏi cuốn “YOU CAT: giáo lý dành cho người trẻ”. Soạn thảo chương trình giáo lý Dự tòng, Hôn nhân và Gia đình, ngang qua việc quan tâm thiết thực đến các anh chị em Tân Tòng, những hội thảo theo chuyên đề sau Hôn Nhân, cộng hưởng những kỹ năng gần gũi và thiết thực, chú ý tới yếu tố Tôn giáo và văn hóa để các anh chị em thuộc giới trí thức ngoài công giáo, và những anh chị em nào muốn tìm hiểu đạo cách khách quan: Đạo Công Giáo với việc thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên (điều răn thứ 4), liên kết với ngoại bang, mê tín dị đoan (ăn thịt người, bùa ngải...). Hôn Nhân Công Giáo (lấy vợ lấy chồng người có đạo là bỏ Tổ Tiên Ông Bà, Cha mẹ), nhằm giải tỏa bớt những ngộ nhận vốn có.

  1. 4.Phải thay đổi cách sống và loan báo Tin Mừng:

Nhu cầu tâm linh người trẻ, những ưu tư, những khát vọng, thao thức, não trạng, tâm lý, khuynh hướng, quan niệm, cách suy nghĩ, khó khăn trước vòng xoáy công nghệ hóa...Chúng ta cũng có thể đến gần họ hơn khi sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội. Thực tế cho thấy mạng truyền thông có một lợi điểm rất lớn, dễ dàng. Giáo Hội tin rằng nếu được sử dụng đúng đắn, các phương tiện truyền thông này mang lại hiệu quả rất lớn, đóng góp nhiều cho việc giải trí, huấn luyện tinh thần, mở rộng và củng cố Nước Chúa.  “Giáo Hội cảm thấy mình có lỗi đối với Chúa của mình nếu không đem ra sử dụng những phương tiện có công hiệu rất lớn này, mà trí óc loài người làm cho càng ngày càng trở nên trọn lành hơn” (số 45). Hơn nữa, lắng nghe, hiểu được tâm tư của họ, nói tiếng nói của họ, đồng hành với họ vượt qua khó khăn, tạo đủ môi trường tin tưởng, yêu thương, bác ái chân thành nếu không muốn họ đi tìm những nơi, những tổ chức, những niềm vui theo cách riêng của họ.

  1. 5.Làm chứng bằng sự bình an và vui tươi:

Người thời đại họ tin sau khi được chứng minh, nghĩa là chỉ chấp nhận sau khi đã kiểm chứng bằng thực tế....Họ chấp nhận người Kitô sống bình an vui tươi bất chấp nghịch cảnh, sống yêu thương và yêu thương tất cả mọi người trong niềm vui. Hơn nữa, người tu sĩ phải trở nên tiếng chuông đánh thức mọi người “ở đâu có tu sĩ, ở đó có niềm vui”

  1. 6.Cần trình bày một Đức Kitô sống động:

Trong những vấn đề thực tế phải lo toan, chúng ta nói với người thời đại về một Đức Giê su Kitô sống động trong hiện tại, một Thiên Chúa đang sống ở giữa mọi người (Ga 1,14), và ở trong chúng ta (Ga 1, 20). Việc rao giảng cần phải được thực hiện làm sao để người rao giảng và người được nghe rao giảng chung cùng một niềm tin, chung một nhịp đập cảm nghiệm có Thiên Chúa sống thật trong cuộc sống mình, một sự hiện diện đầy sức mạnh, quyền năng và tình yêu chan hòa trên cuộc sống.

  1. 7.Đừng quá chú trọng đến kiến thức, giáo điều:

Đức tin người Ki tô hữu trong quá khứ quá chú trọng đến kiến thức hay giáo điều về Thiên Chúa, về Đức Kitô. Làm cho người tín hữu không ít khi chỉ là chấp nhận suông những kiến thức, hay những giáo điều đã được phổ biến, nhất là gắn chặt với lối suy nghĩ: Sợ tội, cũng như cũng không thiếu những sai lầm của cố chấp vì luật, vì giáo điều mà gây nên sự chia rẽ trong hàng ngũ những người Con của Thiên Chúa. Con người tránh làm việc xấu nhưng thiếu sức sống, thiếu sự triển nở. Cần có luật để thống nhất với nhau nhưng bên cạnh đó chúng ta phải uyển chuyển theo bước chân yêu thương của Thiên Chúa là cha nhân hậu và giàu lòng thương xót.

  1. 8.Sẵn sàng thay đổi những gì có thể thay đổi:

Mọi tín điều, luật lệ, giáo lý, triết lý, thần học đều được làm nên vì con người, để phục vụ con người, chứ không thể ngược lại. Tất cả thích ứng với con người, thay vì để con người thích ứng với những điều đó. Sẵn sàng thay đổi những gì có thể thay đổi khi không còn thích hợp hay tạo nên bức tường cản trở con người đến với Thiên Chúa và với nhau. Ban Giáo lý Giáo Phận tổ chức các khóa học tập, hội thảo định kỳ cho các người chuyên trách để các vị này có thể nắm bắt, cập nhật những định hướng mới của Huấn Quyền, những người có trách nhiệm cần khôn ngoan bàn hỏi và bãi bỏ, như các Tông Đồ đã sống và làm gương cho chúng ta.

  1. 9.Cần phân biệt cái không thể thay đổi với những cái có thể thay đổi:

Người chiến sĩ Chúa Kitô sẵn sàng thay đổi những gì có thể thay đổi, và chỉ cương quyết giữ lại những gì cốt tủy không thể thay đổi được. Muốn thế, chúng ta cần nhạy bén để biện phân những gì là mục đích với những gì là phương tiện, những gì cốt tủy với những gì tùy phụ. Chẳng hạn: Ngôi Lời đã Nhập Thể vào ngôn ngữ và văn hóa của con người. Trong cá Giáo Huấn của Giáo Hội, cần phân biệt đâu là yếu tố cốt tủy đâu là yếu tố văn hóa được dùng để diễn tả sứ điệp. Lẫn lộn những điều đó, chúng ta sẽ khó phân biệt được và không quyết đoán được những gì có thể thay đổi và những gì không thể thay đổi.

Những đề xuất trên đây không nhằm hạn chế những thúc đẩy của Chúa Thánh Thần trong việc Loan Báo Tin Mừng nơi mỗi tín hữu. Chúng ta vẫn phải làm những gì mà lâu nay chúng vẫn làm như: Sống Đức tin qua việc năng lãnh nhận Các Bí Tich, làm chứng cho những giá trị của tin mừng, tránh làm gương mù gương xấu, thăm viếng anh chị em lương dân, cư xử cho có tình người hơn, kêu gọi mọi thành phần dân Chúa tiếp tục đưa ra những sáng kiến để tin mưng được nhiều người biết đến và tiếp nhận…đặc biệt mời gọi các anh chị em Kitô hữu tham gia vào công tác chính trị, bác ái xã hội  để cùng nhau làm thăng tiến con người.

 

C. MỘT SỐ VIỆC LÀM CỤ THỂ CỦA VIỆC THỰC HÀNH SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG THEO TÔNG HUẤN EVANGELII NUNTIANDI TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG

(Sẽ bổ sung sau các chị nhé)

  1. 2.Về việc hội nhập văn hóa:

-          Tục lệ thờ kính tổ tiên.

-          Cử hành phụng vụ theo bản sắc dân tộc, cụ thể như ở Bắc Ninh đã sử dụng bộ lễ dân ca, một số nơi khác thì sử dụng các nhạc cụ dân tộc như cồng, chiêng…Ngoài ra còn có tập tục thờ

-          ….

  1. 3.Về việc loan báo bằng cuộc sống và lời nói

-          Các tổ chức của Dòng Cứu Thế: ….

-          Các Hội dòng khác: ….

-         

  1. 4.Về việc giải phóng

-          Bảo vệ phẩm giá con người:…..

-          Bảo vệ công lý hòa bình:…

 

 

 

  1. 5.Về việc đối thoại

……

 

 

  • ØTHAY LỜI KẾT:

Qua những gì vừa trình bày, chúng ta đã nhận thấy việc truyền giáo không hạn hẹp trong một đối tượng riêng nào cả. Những thao thức của Đức Thánh Cha Phaolô VI tiếp tục đượcđề cập không chỉ mang một kế hoạch lâu dài, mà còn như những hoạch định thiết thực hằng ngày cho người Rao Giảng Tin Mừng.

Mang trên mình hành trang yêu thương, đong đầy con tim bằng tấm lòng rộng mở, vị tha, hướng thượng, nuôi sống mình bằng đời sống cầu nguyện, phát xuất từ Đức Kitô, như Ngài luôn quan tâm đến mọi đối tượng, mọi thành phần của xã hội, sẵn sàng đi đến vùng ngoại biên của mình để đến với người khác.

Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng không chỉ được trình bày như một bài học, một bài được trình bày có sự chuẩn bị nhưng cùng mở ra cho tất cả chúng ta một chân trời mới, là chuẩn điểm cho ta quy chiếu trước những thách đố của thời cuộc, trong việc đem Tin Mừng và tình yêu Thiên Chúa đến với con người và cho con người. Từ đó, Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta cùng cộng tác trong sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng niềm xác tín về sứ mạng của Chúa Cha đã trao qua Đức KiTô với sự hướng dẫn dắt đắc lực của Chúa Thánh Thần trong tinh thần hiệp thông.

Hủ Tíu

 

 

Read 1902 times Last modified on Thứ hai, 15 Tháng 6 2015 15:51