Get Adobe Flash player

Tìm Kiếm

Đăng nhập

Thứ sáu, 10 Tháng 7 2015 16:00

Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng (EVANGELII NUNTIANDI)-Đức Thánh Cha Phao-lô VI

Posted by 
Rate this item
(0 votes)
  Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng (EVANGELII NUNTIANDI)-Đức Thánh Cha Phao-lô VI, một bài khảo luận của Hủ Tíu người con của giáo xứ. ban biên tập gxthohoang.net trân trọng giới thiệu












Tông Huấn

LOAN BÁO TIN MỪNG

(EVANGELII NUNTIANDI)

ĐỨC THÁNH CHA PHAO-LO VI

DÀN BÀI TỔNG QUÁT

 

DẪN NHẬP

 

  1. I.BỐI CẢNH RA ĐỜI

 

  1. II.NỘI DUNG CỦA TÔNG HUẤN: Gồm 8 Chương.

 

Chương I: Từ Đức Kitô rao giảng đến Giáo Hội rao giảng

Chương II : Phúc Âm hóa là gì ?

Chương III : Nội dung của việc Phúc Âm hóa

Chương IV : Những đường lối của việc Phúc Âm hóa

Chương V : Đối tượng của việc Phúc Âm hóa

Chương VI : Những người rao giảng Tin Mừng

Chương VII : Tinh thần của việc rao giảng Tin Mừng

Chương VIII : Kết luận

 

III. NHỮNG NỀN TẢNG THẦN HỌC VÀ CÁCH THỨC THỰC HIỆN SỨ VỤ

 

1. NHỮNG NỀN TẢNG THẦN HỌC

2. CÁCH THỨC THỰC HIỆN

 

IV.     NHẬN ĐỊNH VÀ MỘT VÀI GỢI Ý CHO VIỆC THỰC HÀNH SỨ VỤ TẠI VIỆT NAM

 

A.  NHẬN ĐỊNH

B.  MỘT VÀI GỢI Ý CHO VIỆC THỰC HÀNH SỨ VỤ TẠI VIỆT NAM

 

  1. Nơi Giáo xứ và nơi các Hội Dòng, Hội Đoàn, trong các Gia đình:

 

  1. KẾT LUẬN

  

DẪN NHẬP:

Sứ vụ truyền giáo chính là Tin Mừng để xây dựng nước Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa và tha nhân thúc đẩy người tín hữu loan báo Tin Mừng cho anh em mình. Nhiệm vụ của chúng ta là mạnh dạn dấn thân vào con đường đối thoại với tất cả khả năng của trí tuệ, sức mạnh của con tim và niềm tin tưởng lạc quan nơi quyền năng Thiên Chúa, Đấng tác tạo và hướng dẫn muôn vật theo kế hoạch yêu thương nhiệm mầu của Ngài. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần” (Mt 28,19). Lệnh truyền của Chúa Giêsu vẫn luôn cấp bách như mới vừa nói xong, nó có giá trị cho mọi thời và cho mọi nơi. Tuy nhiên, lệnh truyền này phải được thực thi trong một hoàn cảnh cụ thể. Là người Kitô hữu và là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta cần tìm ra những phương thức thích hợp và hiệu quả nhất để hoàn thành lệnh truyền của Ngài.

  1. BỐI CẢNH RA ĐỜI

Sắc lệnh Ad Gentes đã mở ra những viễn ảnh mới về sứ vụ. những viễn ảnh đó đã làm nảy sinh những vấn đề sâu sắc. Gần 10 năm sau Công Đồng Vaticano II vấn đề công lý và hòa bình đã trở nên ngày một cấp bách, những vấn đề về sứ vụ và đối thoại chưa được thực hiện thích đáng. Trong bối cảnh này Đức Phaolo VI triệu tập Thượng hội Đồng Giám Mục năm 1975 với chủ đề “ Tin Mừng hóa trong thế giới hiện đại”.

Tông huấn LOAN BÁO TIN MỪNG ( EVANGELII NUNTIANDI ) được Đức Thánh Cha ban hành tại Roma, ngày 08.12.1975, lễ trọng kính Đức Trinh Nữ Maria, Vô Nhiễm Nguyên Tội đã ghi khắc với những biến cố nổi bật:

 

  • Nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày bế mạc Công đồng Vaticanô II. Mục tiêu của công đồng này được cô đọng trong câu: Làm cho Giáo Hội của thế kỷ 20 trở nên thích hợp hơn trong việc loan báo Tin Mừng cho nhân loại của thế kỷ hai mươi.
  • Nhân dịp một năm sau ký đại hội lần thứ ba của Thượng Hội Đồng Giám Mục, một đại hội mà ai cũng biết được dành riêng cho việc Phúc Âm hoá.
  • Khi kết thúc cuộc đại hội với nhiều tin và đơn thành, các Nghị Phụ đã quyết định trao lại cho vị chủ chăn Giáo Hội toàn cầu tất cả kết quả những công lao khó nhọc của mình, đồng thời các Ngài mong chờ Giáo Hoàng đề ra một đường hướng mới khả dĩ tạo nên một thời đại Phúc Âm hoá trong một Giáo Hội được bén rễ sâu hơn nữa nơi sức mạnh và quyền năng bất diệt của lễ hiện xuống.

 

 

  1. NỘI DUNG TÔNG HUẤN

Chương I : Từ Đức Kitô rao giảng đến Giáo Hội rao giảng

Sứ mạng loan báo Tin Mừng bắt nguồn từ chính Đức Kitô qua chính lời chứng và sứ mạng của Người. Chính Đức Giêsu là nhà rao giảng Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất của Giáo Hội. Đức Kitô loan báo ơn cứu độ như là nòng cốt và trung tâm của Tin Mừng. Ơn cứu độ được khởi sự suốt đời Đức Kitô và được hoàn tất qua cái chết và sự Phục sinh của Ngài, nhưng ơn này phải kiên trì đi qua dòng lịch sử để được thực hiện cách viên mãn trong ngày Đức Kitô lại đến, ngày mà không ai biết, trừ Chúa Cha (Mt 24,36). Ngài còn kêu gọi, hãy chiếm lấy Nước Trời bằng một nỗ lực cam go. Nhưng trước hết mỗi người chiếm lấy chúng bằng sự biến đổi hoàn toàn nội tâm như Phúc Âm diễn tả qua từ ngữ “METANOIA” nghĩa là sự trở lại tự căn bản, sự thay đổi sâu xa về cách nhìn và cách sống (Mt 4,17). Đây là môn Sứ mạng và một ơn gọi căn cốt của Giáo Hội, đến nỗi thánh Phaolô cũng phải thốt lên rằng “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là một tước hiệu danh dự, đó là một bổn phận. Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng !” (1Cr 9,16).

Như thế giữa Đức Kitô, Giáo Hội và việc Phúc âm hóa có một mối liên hệ sâu xa, không thể tách rời Giáo Hội khỏi Chúa Kitô. Và nếu tách biệt Chúa Kitô và Giáo Hội thì quả là một điều phi lý, điều này đã bị Phúc Âm kết án một cách rõ ràng .

 

 

Chương II : Phúc âm hóa là gì ?

Đối với Giáo Hội, Phúc Âm hóa là đem Tin Mừng vào trong mọi cảnh vực nhân loại và nhờ sự tiếp xúc này làm thay đổi tự bên trong, đổi mới chính nhân loại: “Này đây Ta tạo dựng một vũ trụ mới” (Ap 21,5). Nhưng không có nhân loại mới, nếu trước tiên không có con người mới, không có sự sống mới nhờ phép Rửa tội (Rm 6,4) và do đời sống theo Tin Mừng (Ep 4, 23-24).

Như thế, Phúc Âm hóa là một diễn tiến phức tạp gồm nhiều yếu tố: Canh tân nhân loại, làm chứng loan báo công khai, làm việc tông đồ. Mục đích của việc Phúc Âm hóa chính là sự thay đổi nội tâm đó, Phúc Âm hóa còn nhằm đổi mới cảnh vực sống của nhân loại bởi những cảnh vực sống của nhân loại đang biến đổi.

Cũng cần Phúc Âm hóa các nền văn hóa nữa. Tức là, “Cần phải Phúc Âm hóa văn hóa và những nền văn hóa của con người hiểu theo nghĩa phong phú và rộng rãi như trong Gaudium et Spes” (53) nghĩa là đi từ con người và lại quy về những tương quan giữa con người với người và người với Thiên Chúa. Mặt khác, Tin Mừng phải được công bố bằng chứng tá. Tuy nhiên chứng tá không chưa đủ, vì chứng tá cho dù đẹp đẽ nhất cũng sẽ trở nên vô hiệu theo thời gian, nếu nó không được soi sáng, biện minh, nghĩa là theo thánh Phêrô “đưa ra những lý lẽ cậy trông” (1P 3,15) và nếu nó không được diễn đạt bằng một sự loan báo rõ ràng, không mập mờ về Đức Kitô. Tin Mừng đã được công bố nhờ chứng tá đời sống, sớm muộn phải được công bố bằng Lời hằng sống. Sau cùng Phúc Âm hóa cần dẫn đến hoạt dộng tông đồ thì mới thiết thực và hiện sinh được.

 

Việc Phúc Âm hóa đem lại hiệu quả: Là sự gắn bó lòng dạ với Tin mừng, được thể hiện qua việc gắn bó với những chân lý mà Chúa nhân từ đã mạc khải; Với chương trình sống mà Chúa đề nghị: Với Triều đại, nghĩa là với “thế giới mới, với tình huống mới, với cách hiện hữu mới, cách sống mới, cách sống với nhau mới”. Gắn bó với một cộng đồng tín hữu, và với các bí tích ban Ân sủng (Số 23).

 

Chương III : Nội dung của việc phúc âm hóa

Việc Phúc Âm hóa nhấn mạnh đến những điểm chính sau:

Làm Chứng cho Tình Yêu của Chúa Cha: là làm chứng rằng, thiên chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài, Ngài là một Người Cha, chứ không phải là một quyền lực vô danh và xa vời nào đó, và chúng ta là con của Ngài, là anh chị em của nhau trong Thiên Chúa.

Ơn Cứu Ðộ nơi Chúa Kitô là Cốt Lõi của Sứ Ðiệp: : Việc Phúc Âm hóa luôn luôn hàm chứa một công bố rõ ràng rằng nơi Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết và đã sống lại, ơn cứu rỗi đã được ban cho mọi người nhờ ân sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa. “Ơn cứu rỗi của Đức Kitô vượt quá tất cả những giới hạn và sẽ hoàn tất trong vĩnh cửu.

Báo trước Dấu Chỉ Hy Vọng. Việc truyền bá phúc âm hoá, bao gồm: Việc loan báo hướng về đời sau. Và việc rao giảng về: Một niềm hy vọng nơi những gì Thiên Chúa hứa hẹn ở Giao Ước mới trong Chúa Giêsu Kitô. Tình yêu của Thiên Chúa, Tình yêu huynh đệ đối với tất cả mọi người xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa, là mầm mống của Phúc Âm. Mầu nhiệm sự dữ và về sự chủ động tìm kiếm sự thiện. Tìm kiếm Chính Thiên Chúa.

Đề cập đến Sứ Ðiệp về Việc Giải Phóng: Giáo Hội có nhiệm vụ:

+Phải loan báo việc giải phóng cho triệu triệu con người, trong đó nhiều người là con cái của Giáo Hội.

+Tiếp tay giúp vào việc chào đời của cuộc giải phóng này.

+Giúp vào việc làm chứng cho nó, giúp vào việc bảo đảm đạt thành nó.

Việc Giải Phóng theo Phúc Âm phải Tập Trung vào Vương Quốc của Thiên Chúa. Giáo Hội không muốn: giới hạn sứ vụ của mình vào lãnh vực tôn giáo; tách mình ra khỏi những vấn đề trần thế của con người. Giáo Hội tái khẳng định nền tảng của ơn gọi thiêng liêng của mình, không chịu thay thế việc loan báo vương quốc, bằng việc loan báo những thể thức giải phóng thuộc về nhân loại. Giáo Hội liên kết việc giải phóng thuộc về con người với ơn cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô, song Giáo Hội không bao giờ đồng hoá chúng.

Cuối cùng là mối liên hệ giữa Phúc Âm hóa và thăng tiến con người: Giữa việc Phúc Âm hóa và việc thăng tiến con người có những mối liên hệ sâu xa thực sự: “Liên hệ có tính cách nhân văn, bởi vì con người cần được Phúc Âm hóa không phải là một hữu thể trừu tượng nhưng gắn liền với những vấn đề xã hội và kinh tế. Liên hệ có tính cách thần học, bởi vì chúng ta không thể tách rời bình diện Sáng tạo khỏi bình diện Cứu chuộc”. Bác ái là liên hệ tiêu biểu nhất của Tin Mừng, giúp con người phát triển và lớn mạnh trong công lý và hòa bình.

Chương IV : Những đường lối của việc phúc âm hóa

Tìm những phương tiện thích hợp: Cách thức rao giảng Tin Mừng thay đổi tùy theo những hoàn cảnh khác nhau về: thời gian, không gian, văn hóa… Nó đòi hỏi khả năng tìm kiếm và thích ứng của chúng ta. Đặc biệt những chủ chăn trong Giáo Hội phải nghĩ tới cách tái lập những phương thức thích hợp và hiệu quả nhất để truyền thông sứ điệp Tin Mừng cho thời đại.

Chứng Từ Ðời Sống: Đối với Giáo Hội, đời sống chứng tá của người tín hữu trong sự hiệp thông là phương thế thứ nhất của việc Phúc Âm hóa. Đời sống Kitô hữu chân chính cho Thiên Chúa, được tỏ ra bằng:

  1. Mối hiệp thông không gì hủy hoại được
  2. Việc hy hiến cho tha nhân với một nhiệt tình vô hạn.
  3. Việc trung thành với Chúa Giêsu - chứng tá khó nghèo và không dính bén, chứng tá tự do trước những quyền lực thế gian, (chứng tá của sự thánh thiện).

Việc Rao Giảng Sống Ðộng: Đối diện với vấn nạn của con người hôm nay: không thích nghe, không lãnh hội được những ngôn từ, sống theo một thứ văn minh của ảnh tượng.

  • Nên phải sử dụng đến những phương tiện tân tiến do thứ văn minh này sản xuất ra.
  • Không được làm giảm sút đi quyền lực vĩnh viễn của ngôn từ, hay làm mất đi uy tín của nó. Ngôn từ bao giờ cũng xứng hợp, nhất là khi nó chất chứa quyền lực của Thiên Chúa, chính Lời được rao giảng mới dẫn đến niềm tin.

Phụng Vụ Lời Chúa : Phụng vụ được Công Đồng canh tân đã đề cao giá trị của “Phụng Vụ Lời Chúa”. Phải có đủ cảm nhận linh thiêng chân thực khi đọc sứ điệp của Thiên Chúa. Bài giảng được coi như một dụng cụ có giá trị và rất phù hợp cho việc loan báo Tin Mừng. Bài giảng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc loan báo Tin Mừng nếu nó diễn tả được đức tin sâu xa và lòng yêu mến của thừa tác viên đang rao giảng. Vì vậy bài giảng phải đơn giản, sáng sủa, trực tiếp thích hợp, liên kết sâu xa với giáo lý của Tin Mừng và trung thành với giáo huấn của Giáo Hội. Bài giảng sẽ luôn luôn là một dịp tốt lành để thông truyền Lời Chúa. 

Huấn giáo: Phương pháp dạy phải thích nghi với lứa tuổi, văn hóa, khả năng của học viên. Phải đào tạo những giảng viên có khả năng. Đó là điều cần thiết và bó buộc đối với việc dạy giáo lý. Ngoài ra, việc dạy giáo lý dưới hình thức dự tòng là một công việc cấp bách hiện nay, có nhiều thanh niên và người lớn, nhờ ơn thánh tác động, họ dần dần khám phá ra khuôn mặt của Đức Kitô và cảm thấy cần phải hiến thân cho Ngài.

Sử Dụng Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội: Những phương tiện truyền thông xã hội được sử dụng vào việc phục vụ Tin Mừng có khả năng mở rộng hầu như vô tận, có thể đem Tin Mừng đến cho hàng triệu người. Thách đố việc sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội để truyền bá phúc âm hoá là: làm sao nhờ chúng, sứ điệp phúc âm vươn tới một số đông người ta, bằng một khả năng thấu nhập lương tri mỗi cá nhân, khả năng đâm mầm trong tâm can họ như thể họ là một người duy nhất được nghe rao giảng, với tất cả những tính chất riêng tư của họ, và cũng nhờ những phương tiện truyền thông xã hội này sứ điệp phúc âm làm cho mỗi người biết hoàn toàn chấp nhận và dấn thân. 

Tiếp xúc cá nhân: Nhờ những hình thức tiếp xúc cá nhân mà lương tâm cá nhân của con người được chạm tới, được đánh động do lời nói khác thường mà họ nghe được nơi người khác. Đây là một cách mà nhờ đó lương tâm riêng của mỗi người được giao chạm bởi một thế giới hoàn toàn chuyên biệt mà họ lãnh nhận từ một người khác.

Vai Trò các Bí Tích: Ðời sống siêu nhiên này được diễn đạt sống động nơi bảy bí tích, cũng như nơi ánh quang cao qúi của ân sủng và thánh đức ở nơi các bí tích này.

Những hình thức sống đạo bình dân: Dân chúng có những cách diễn tả đặc biệt về sự tìm kiếm Thiên Chúa và về đức tin, đó là hình thức sống đạo bình dân.

Đạo tình cảm bình dân chắc chắn có những giới hạn, nhưng nếu được hướng dẫn tốt, nó lại có nhiều giá trị phong phú. Nó biểu lộ một sự khao khát Thiên Chúa; bao hàm một cảm thức sâu xa về những phẩm tính siêu việt của Thiên Chúa; phát sinh những thái độ nội tâm.Tất cả những ai được Đức Kitô đặt để làm đầu của các cộng đoàn Giáo Hội, cần phải tìm ra những nguyên tắc hướng dẫn lòng đạo đức này. Được hướng dẫn tốt, lòng đạo đức bình dân này có thể dần dần làm cho giới bình dân của chúng ta gặp gỡ thực sự Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.

Chương V : Đối tượng của việc phúc âm hóa

Vì việc “Phúc Âm hóa” mang tính cách phổ quát, do đó đối tượng của việc Phúc Âm hóa là tất cả mọi người, chính Chúa Giêsu đã ủy thác cho các Tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ vật” (Mc 16,15). Chính nhờ bách hại mà Lời Chúa gieo rắc khắp nơi (số 49). Có nhiều cản trở trong việc Phúc Âm hóa, cản trở nặng nhất là do các chính quyền. Ngày nay, những ai rao giảng Lời cũng bị bách hại, bị tước đoạt quyền lợi, bị đe dọa, khai trừ…Dù thế, công việc rao giảng không bị dập tắt. Trái lại, Giáo Hội luôn tìm nguồn hứng khởi từ “Thầy” mình và hâm nóng nó, bằng cách kêu gọi đừng hạn chế việc rao giảng Tin Mừng.

Đối tượng trực tiếp của việc rao giảng là những kẻ chưa biết đến Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài, các trẻ em, người chịu phép thanh tẩy nhưng không sống đạo, người đơn sơ chất phác đã có đức tin nhưng không biết rõ những điều căn bản của đức tin, nhà trí thức cảm thấy cần biết Chúa Giêsu Kitô bằng một đường lối khác và nhiều người khác nữa.

Việc loan báo cũng dành cho một phần lớn nhân loại thuộc những tôn giáo khác mà giáo hội tôn trọng và yêu quí, vì những tôn giáo này biểu hiện sống động tâm hồn của các tập thể nhân loại, họ mang trong mình tiếng vọng ngàn đời của việc tìm kiếm Thiên Chúa,một sự tìm kiếm bất toàn nhưng được thực hiện với tâm hồn trung thành và ngay thẳng, họ có một di sản đáng kể về những văn kiện hết sức đạo đức, dạy cho nhiều thế hệ biết cầu nguyện.... Đây là vấn đề phức tạp và tế nhị, nhưng mở ra những “chân trời mới” trong việc tiếp xúc với các tôn giáo ngoài Kitô giáo. Tuy nhiên, không vì phức tạp mà Giáo Hội không rao giảng ngược lại Giáo Hội giúp họ gặp gỡ Mầu Nhiệm tình phụ tử của Thiên Chúa với họ, tạo mối liên hệ đích thực và sinh động với Thiên Chúa mà các tôn giáo khác không làm được. Các phương tiện thực hiện cho mục đích này: Giảng dạy trực tiếp, nghệ thuật, khoa học, triết học…và cả tình người. Giáo Hội không an nghỉ khi chưa làm hết sức mình để loan Tin Mừng và luôn luôn chuẩn bị thế hệ những tông đồ mới (số 53).

Bên cạnh đó Giao hội vẫn liên lỉ chú ý đến những người đã lãnh nhận đức tin, giáo hội tìm cách củng cố, nuôi dưỡng và làm cho đức tin của họ trưởng thành hơn vì họ manh danh là kito hữu, là kẻ tin. Ngày nay đức tin của người tín hữu phải đương đầu với phong trào tục hóa, kể cả vô thần đấu tranh, một đức tin bị thử thách, hăm dọa, bao vây và uy hiếp....đức tin cần phải được nuôi dưỡng và nâng đỡ qua việc huấn giáo đầy nhựa sống Tin Mừng nhờ một ngôn ngữ thích hợp với thời đại và con người. Ngoài ra giáo hội cũng lưu tâm rất nhiều đến các kito hữu không còn hoàn toàn hiệp thông với mình.(số 54)

Thượng Hội Đồng giám mục còn có một mối bận tâm về hai phạm vi:

Phạm vi thứ nhất: Trào lưu vô tín của thế giới hiện đại. Về phương diện thiêng liêng, thế giới hiện đại này đang vùng vẫy trong “Thảm cảnh của thuyết nhân bản vô thần”. Đàng khác, người ta cũng nhận thấy dấu chỉ thời đại, đó là phong trào tục hóa coi Thiên Chúa là thừa thãi và trở ngại, hình thức vô thần quy nhân có tính cách thực dụng, liên kết với thứ tục hóa vô thần tạo nên nền “văn minh tiêu thụ”, nâng chủ nghĩa khoái lạc lên thành giá trị tối thượng, và một ý muốn tham quyền thống trị , những kì thị đủ loại, chủ nghĩa vô nhân đạo...(số 55)

Phạm vi thứ hai: là phạm vi của những người không sống đạo; là người đã được rửa tội tuy không chối bỏ phép rửa nhưng lại hoàn toàn không sống đạo. Nguyên nhân là do mất gốc, hoặc chịu ảnh hưởng từ những người vô thần, hoặc giải thích và biện minh cho lập trường sống đạo nội tâm.

Vô thần, vô tín và những người không sống đạo đều đối kháng lại việc Phúc Âm hóa. Vô thần và vô tín thì phủ nhân, còn người không sống đạo thì bất đồng với mọi thái độ. Tục hóa vô thần và sự bỏ đạo xuất hiện nơi mọi lứa tuổi, trong mọi lãnh vực văn hóa, trong các Giáo Hội già cũng như Giáo Hội trẻ. Giáo Hội không thể bỏ qua việc truyền bá Tin Mừng cho hai nhóm này, nhưng là phải kiên trì tìm ra phương thế và ngôn ngữ thích hợp để giúp họ hiểu về Mạc Khải của Thiên Chúa và niềm tin vào Đức Giêsu Kitô(số 56)..

Giáo Hội ý thức về nhiệm vụ rao giảng Ơn Cứu Độ cho mọi người, vì sứ điệp Tin Mừng không chỉ dành riêng cho một nhóm nhỏ đã được chỉ định, được đặc tuyển nhưng dành cho tất cả mọi người. Giao hội coi sự ưu tư của Đức Kito như của chính mình : “Ta thương xót đám đông này” (Mt9,36) (số 57)

Thượng Hội Đồng Giám Mục đã chú ý nhiều đến những cộng đoàn nhỏ, còn gọi là “Cộng đoàn cơ bản”. Các cộng đoàn này khai nở hầu như khắp nơi trong Giáo Hội nên cũng khác nhau nhiều tại cùng một vùng hoặc từ vùng này đến vùng khác.Tại một số vùng, chúng phát sinh và triển nở ngay trong Giáo Hội, do nhu cầu muốn sống mạnh mẽ đời sống của Giáo Hội. Chúng liên đới với Giáo Hội, gắn bó với các chủ chăn. Ngược lại, ở những vùng khác, các cộng đoàn cơ bản lại liên kết với nhau với tinh thần chỉ trích thậm tệ Giáo Hội. Họ kết án Giáo Hội như một “Tổ chức cơ cấu” và tự coi mình như những cộng đoàn đặc sủng, thoát khỏi mọi cơ cấu, chỉ nhờ Tin Mừng linh hứng mà thôi. Danh xưng “cộng đoàn cơ bản” này được dùng cho những cộng đoàn tụ họp lại trong Giáo Hội để hiệp nhất với Giáo Hội, chính những cộng đoàn Giáo Hội cơ bản cũng sẽ sớm trở thành những người rao giảng Tin Mừng (số 58).

Chương VI : Những người rao giảng tin mừng

Ai là người rao giảng Tin Mừng ? Công Đồng Vaticano II trả lời : “Do lệnh Chúa, giáo hội có trách nhiệm đi khắp thế gian và loan truyền Tin Mừng cho mọi loài tạo vật” (số 13, D.H).

Tông huấn cho biết công cuộc Tin Mừng hóa bắt nguồn từ Đức Kitô, là nhiệm vụ của toàn thể dân Thiên Chúa (số 13 D.H; số 35 Ad.G) Số 60: Nói Giáo Hội được sai phái đi Phúc Âm hóa thế giới là nhận định gồm hai niềm xác tín. Thứ nhất: Rao giảng Tin Mừng không phải là mộtviệc làm cá nhân, lẻ loi nhưng là của tất cả mọi thành viên trong Giáo Hội. Thứ hai: Nếu mỗi ngườirao giảng Tin Mừng nhân danh giáo Hội và giáo hội rao giảng theo lệnh truyền của Chúa thì phải thực hiện công cuộc Tin Mừng hóa trong sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội và với các chủ chăn.

Chúa muốn Giáo Hội Ngài phải phổ quát được như một cây lớn để chim trời đến nương náu (Mt 13,32), như tấm lưới vớt được mọi thứ cá (Mt 13,17)....Một giáo hội phổ quát vượt mọi biên giới trừ biên giới chai đá của tội nhân. Do đó, Giáo Hội có sứ mệnh và ơn gọi phổ quát (số 61).

Thế nhưng Giáo Hội vẫn mang những khuôn mặt, những biểu hiện bên ngoài khác nhau vì Giáo Hội đã len lỏi và cắm rễ sâu vào những miếng đất ở mỗi địa phương khác nhau và hấp thụ nền văn hóa khác nhau (số 62). Công cuộc Tin Mừng hóa của Giáo hội sẽ thất bại nếu không chú ý và hội nhập văn hóa, với những phong tục tập quán của dân tộc đó. Ngược lại công cuộc Tin Mừng hóa có thể đánh mất chính mình khi hòa tan mình vào trong văn hóa của dân tộc đó mà quên đi cái cốt lõi, cái chính yếu của sứ điệp mình (số 63).

Giáo Hội địa phương liên kết chặt chẽ với Giáo Hội phổ quát để cùng thực hiện công cuộc Tin Mừng hóa, mỗi người, mỗi thành phần có trách nhiệm của mình trong công cuộc Tin Mừng hóa. Giáo Hội địa phương càng liên kết chặt chẽ với Giáo hội phổ quát trong tình bác ái và thành tín, càng có khả năng diễn diễn đạt kho tàng đức tin, càng là một Giáo hội Truyền Giáo. Toàn thể Giáo Hội được mời gọi làm công việc Tin Mừng hóa. Tuy nhiên, giữa lòng Giáo Hội, chúng ta phải chu toàn những nhiệm vụ Tin Mừng hóa khác nhau.

Với tư cách là những vị chủ chăn trong Giáo Hội, người kế vị thánh Phê-rô cùng với các Giám Mục, linh mục, phó tế được mời gọi ý thức về nhiệm vụ Tin Mừng hóa hơn mọi thành phần khác trong Giáo Hội. Các Ngài đã có trách nhiệm gìn giữ nguyên vẹn nội dung đức tin công giáo, dạy dỗ chân lý mạc khải, cử hành các bí tích và rao truyền Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.

Các tu sĩ tìm được một phương kế tốt đẹp đặc biệt để Tin Mừng hóa. Bằng việc tuân giữ các lời khuyên phúc âm, bằng chính cuộc sống cầu nguyện, hy sinh, hay bằng tinh thần hăng say truyền giáo của mình, họ góp phần cùng với hàng giáo phẩm trong Giáo Hội làm cho công cuộc Tin Mừng hóa của Giáo Hội ngày một thêm phong phú(số 69).

Giáo hội là dân Thiên Chúa, do đó giáo dân cũng được mời gọi làm công việc Tin Mừng hóa theo một cách thức độc đáo. Thế giới rộng lớn và phức tạp này là phạm vi cho hoạt động Tin Mừng hóa của giáo dân (số 70). Bên trong việc tông đồ Tin Mừng hóa của giáo dân phải kể đến hoạt động Tin Mừng hóa của gia đình, vì từ nơi gia đình ta bắt gặp lại các khía cạnh của Giáo Hội, do đó mọi phần tử của gia đình đều Tin Mừng hóa và được Tin Mừng hóa. Ngoài ra, các người trẻ là thành phần đông đảo cần được giúp để hiểu biết và sống Tin Mừng.

Đức Thánh Cha nói đến các tác vụ khác như: Việc dạy giáo lý, hướng dẫn cầu nguyện và hát, chuyên lo phục vụ Lời Thiên Chúa hay giúp đỡ những anh em túng thiếu, đứng đầu các cộng đồng nhỏ, phụ trách các phong trào tông đồ hay có những trách nhiệm khác, đều quý báu để Giáo Hội được gieo trồng, sống và lớn lên đồng thời cho sức tỏa ra của Giáo Hội xung quanh mình và tới những kẻ ở xa. Ngài lưu ý với tất cả những người làm công việc phúc âm hóa phải được chuẩn bị nghiêm chỉnh; những người có sứ mệnh truyền đạt Lời Chúa phải hết sức lo sao cho ngôn ngữ của mình thật trang nghiêm, chính xác và thích ứng.

 

Chương VII: Tinh thần của việc rao giảng tin mừng (số 74-80)

1. Dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần

Tông huấn số 75 xác định: “Không bao giờ có thể rao giảng Tin Mừng nếu không có sự tác động của Chúa Thánh Thần”. Ngài hoạt động nơi mỗi người truyền giảng và tâm hồn của những người nghe. Ngài là tác nhân chính của việc rao giảng Tin Mừng đồng thời là chung cục của việc rao giảngTin mừng.

2. Sống chứng tích đời sống

Đức Giáo Hoàng Phaolo VI nói: Thời nay người ta cần chứng nhân hơn là thầy dạy, do đó người rao giảng là người tin, sống và làm chứng cho điều mình rao giảng. Họ cần được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện và lòng yêu mến phép Thánh Thể, đồng thời phải làm mình lớn lên trong đường thánh thiện.

3. Xây dựng sự hiệp nhất và phục vụ chân lý

Sự hiệp nhất giữa các môn đệ cho thấy chúng ta là môn đệ Đức Giêsu, vì thế người rao giảng Tin Mừng là người trưởng thành trong Đức tin và hiệp nhất với nhau trong đường lối của việc phúc âm hóa, vì thế phải tái lập sự hiệp nhất toàn vẹn bằng việc gia tăng cầu nguyện. Hơn nữa người rao giảng Tin Mừng phải là người dám hy sinh quên mình cho tha nhân và tìm kiếm chân lý.

4. Do tình yêu và sự nhiệt tâm

Công việc Phúc Âm hóa đòi hỏi người rao giảng phải có một tình huynh đệ luôn lớn mạnh đối với những người mình truyền giảng. Phải được khởi hứng từ lòng nhiệt thành của các vị rao giảng đã hiến cả cuộc đời cho việc tông đồ. Do đó, chúng ta hãy giữ lòng nhiệt thành, bảo tồn niềm vui dịu dàng và niềm an ủi được rao giảng, ngay cả lúc phải gieo trong nước mắt.

Chương VIII: Kết luận

Tông huấn Loan báo Tin mừng Nuntiandi Evangelii đã nhắc lại lời mời gọi tha thiết của Đức Phaolô VI về việc Loan Báo Tin Mừng đối với anh em Kitô giáo cũng như anh em ngoài Kitô giáo. Ngài ước mong việc Loan Báo Tin Mừng sẽ làm cho hàng triệu tâm hồn hòa giải với Thiên Chúa và hân hoan đón chào kỉ nguyên mới và cũng là ngưỡng cửa năm thứ 2000 của Kitô giáo.

Bên cạnh đó, Tông huấn cũng đề cao vai trò của Mẹ Maria trong công cuộc Loan Báo Tin Mừng. Đức Phaolô VI đã sánh ví Mẹ như ngôi sao sáng của việc Phúc Âm hóa. Chính nhờ ánh sao sáng là Mẹ mà Giáo Hội được dẫn dắt, được canh tân và vâng theo mệnh lệnh của Chúa, sẵn sàng dấn thân trong công cuộc rao giảng Tin Mừng.

 

III. NHỮNG NỀN TẢNG THẦN HỌC VÀ CÁCH THỨC THỰC HIỆN SỨ VỤ

  1. 1.NHỮNG NỀN TẢNG THẦN HỌC:

Nền tảng thần học cho hoạt động sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh khởi đi từ Chúa Giêsu: “Ta phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Lc 4,43). Người đã áp dụng cho chính mình lời tiên tri Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18; x. Is 61,1) (số 6). Thế nhưng, trước Vatican II, với quan niệm: “Ngoài Hội Thánh không có ơn cứu độ” (Cypriano), Hội Thánh tự đồng hóa mình với Nước Thiên Chúa nên chỉ gói trọn trong phạm vi hạn hẹp: coi triều đại Nước Thiên Chúa tương đương với một xã hội tiến bộ. Hội Thánh chỉ quan tâm mở rộng số lượng và tập trung con người vào sự hiện trị của Thiên Chúa như một thực tại tương lai mà không quan tâm đến cuộc sống hiện tại.

Do đó, khi đối diện với các nền văn hóa và tôn giáo khác nhau Hội Thánh đứng trước nhiều thách đố trong việc loan báo Tin Mừng.

Bởi thế, ý thức sứ mệnh rao giảng Tin Mừng trước những thách đố đặt ra, Giáo Hội khởi sự Phúc Âm hóa chính mình để lắng nghe điều mình Tin, và luôn luôn cần được Phúc Âm hóa nếu muốn giữ được vẻ tươi mát, sinh khí và sức mạnh để loan báo Tin Mừng. Đó chính là con đường trở lại và đổi mới liên tục để thế giới dễ chấp nhận Tin Mừng (số 15).

Vì vậy, Vatican II đã mở ra một hướng suy tư mới về thần học sứ vụ, đòi hỏi Hội Thánh cần có hành động và phương pháp mới dựa trên nền tảng thần học cho phù hợp với bối cảnh của xã hội hôm nay qua tông huấn: “Loan Báo Tin Mừng”.

 

Nền tảng Thần Học Ba Ngôi (số 7, 8, 9, 26, 71)

Sứ vụ về cơ bản đặt nền trên Mầu nhiệm Ba Ngôi trong sự nhiệm xuất, một Thiên Chúa tự thông ban, vì vậy sứ vụ không phải là mở rộng Giáo Hội cũng không phải là thực thi một mệnh lệnh thiếu nền tảng thần học. Nhưng đúng hơn sứ vụ là thành phần toàn vẹn trong kế hoạch ngàn đời của Thiên Chúa đối với thế giới. Tông huấn Loan Báo Tin Mừng nhìn nhận rằng chínhĐức Giêsu là Đấng Tin Mừng hóa đầu tiên, vĩ đại nhất và đến cùng: đến mức tuyệt hảo, đến hy sinh cả sự sống trần thế của mình (số 7-8). Tất cả ơn cứu độ đã bắt đầu trong cuộc đời Đức Kitô và được thu đạt bằng sự chết và sống lại của Người, nhưng còn phải được kiên trì dẫn đưa trong dòng lịch sử để được thực hiện đầy đủ vào ngày Đức Kitô lại đến, ngày không ai biết là khi nào, trừ Chúa Cha (Mt 24,36 ; Cv 1,7) (số 9). Tuy nhiên sẽ không bao giờ có thể Tin Mừng hóa được nếu không có tác động của Chúa Thánh Thần (số 71). Ngoài ra trong phần nội dung của việc truyền bá phúc âm hóa có nhắc đến sự liên kết chặt chẽ của Ba Ngôi Thiên Chúa như việc làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa Cha, một đường lối đơn thành và trực tiếp. Thiên Chúa được mặc khải nơi Chúa Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Linh. Nơi Con của Người: Thiên Chúa đã yêu thế gian. Nơi Lời Nhập Thể: Thiên Chúa ban tất cả mọi sự và dẫn con người đến sự sống đời đời (số 26).

 

-Tiếp đến là dựa trên nền tảng của Thần học về cánh chung và phương diện cứu độ học (số 13,27,28):

Quan niệm trước Vaticanô II: Giáo Hội hướng con người đến thực tại cánh chung ở tương lai và chỉ quan tâm đến ơn cứu rỗi linh hồn mang tính cá nhân mà bỏ qua thực tại trần thế.

Tông huấn Loan Báo Tin Mừng đã đưa ra một lối nhìn khác hơn khi nói Tin Mừng về Triều đại đang đến và đã bắt đầu là Tin Mừng cho mọi người thuộc mọi thời đại (số 13) và Ơn cứu độ siêu việt, cánh chung này đã hẳn là bắt đầu ở đời này, nhưng lại được hoàn thành trong vĩnh cửu. Vượt ra thời gian và lịch sử, Hội Thánh rao giảng về niềm hy vọng vào những gì Thiên Chúa hứa ở Giao Ước mới trong Đức Kitô Giêsu, về tình yêu của Thiên Chúa với con người, và tình yêu của con người đối với Thiên Chúa, về tình huynh đệ với tất cả mọi người. ( số 27-28).

 Tông huấn dựa trên nền tảng của Thần học giải phóng (số 30, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39)

Giáo Hội như các Giám mục đã lập lại có nghĩa vụ loan báo công cuộc giải phóng hàng bao nhiêu triệu con người trong số đó rất nhiều người là con cái Giáo Hội, Giáo Hội có nghĩa vụ giúp cho công cuộc giải phóng này khởi phát, làm chứng cho nó, và làm cho nó được toàn diện. Đó không phải là điều xa lạ với việc Phúc Âm hóa (số 30).

Như chúng ta đã biết: nền Thần Học Giải Phóng trước Vaticano II ở Châu Mỹ La Tinh chỉ thu gọn lại trong chiều kích kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa hạn hẹp.

Sâu hơn và xa hơn, sự giải phóng mà Tông Huấn phải nhắm tới con người toàn diện, trong toàn bộ các kích thước của con người, thậm chí và kể cả trong hướng mở ra về phía tuyệt đối, ngay cả về phía tuyệt đối của Thiên Chúa, một sự giải phóng theo Tin Mừng (số 33) và phải quy về Nước Thiên Chúa (số 34) một sự giải phóng loại trừ bạo lực (số 37).

Giáo Hội xác tín rằng bao lâu mà mục đích tối hậu của nó không phải là sự cứu rỗi,    và hạnh phúc trong Thiên Chúa thì những cách giải phóng đó đều hàm chứa mầm mống của sự tự hủy và xa lìa lý tưởng mà nó đề ra (số 35). Vì thế, cần có tự do tôn giáo (số 39), sự cộng tác của Giáo Hội (số 38),  và cần có sự trở lại của con tim và lối nhìn của những người đang sống trong những cơ cấu đó hoặc điều khiển chúng (số 36).

- Ngoài ra Tông huấn còn dựa trên nền tảng của Thần học về thăng tiến con người (số 31)

Giữa việc Phúc Âm hóa và việc thăng tiến con người – phát triển, giải phóng – vốn có những mối quan hệ sâu xa. Những quan hệ có tính cách nhân văn, bởi vì con người cần được Phúc Âm hóa không phải là một hữu thể trừu tượng mà gắn liền với những vấn đề xã hội và kinh tế. Những quan hệ này có tính cách thần học, vì không thể tách rời bình diện tạo thành với bình diện Cứu chuộc mà bình diện này đụng tới hoàn cảnh cụ thể trong đó phải đánh dẹp sự bất công và phải khôi phục công lý (số 31). Đây là điểm mới mẻ so với cố gắng tách con người ra khỏi các mối liên hệ thực tại đời sống. 

 

 Tông huấn cũng dựa trên nền tảng thần học về đại kết – đối thoại liên tôn (số 53, 54)

Tin vào ơn cứu độ phổ quát và sứ vụ xuất phát từ Thiên Chúa cũng như sự hoạt động của Chúa Thánh Thần trong thế giới, Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng nhìn nhận rằng: các tôn giáo ngoài Kitô giáo mang theo mình dư âm của hàng ngàn năm tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm chưa đầy đủ nhưng thường là với tấm lòng thật và ngay thẳng.

Giáo Hội nên loan báo Đức Giêsu Kitô cho những người ngoài Kitô giáo, bởi lẽ đạo của chúng ta thiết lập thực sự được một quan hệ đích thực và sống động với Thiên Chúa, khi mà tôn giáo khác không làm được, mặc dù vẫn như đưa tay hướng về trời (số 53). Giáo Hội công giáo cũng lo nghĩ rất nhiều về các kitô hữu không hoàn toàn hiệp thông với mình, trong khi cùng với họ chuẩn bị sự hiệp nhất theo ý Đức Kitô, và chính là để thực hiện sự hiệp nhất trong chân lý (số 54).

 

- Cuối cùng Tông Huấn dựa trên nền tảng của Thánh Mẫu Học (số 82)

Vào buổi sáng Ngày Hiện Xuống, trong khi cầu nguyện Đức Maria đã chủ tọa buổi chủ tọa công cuộc Tin Mừng hóa dưới tác động của Chúa Thánh Thần: Ước gì Ngài là ngôi sao sáng của công cuộc Tin Mừng hóa luôn được làm lại mãi mà Giáo Hội phải xúc tiến và thực hiện, nhất là giữa thời buổi vừa khó khăn vừa hy vọng này (số 82)

 

2. CÁCH THỨC THỰC HIỆN

 

  1. Hội nhập văn hóa theo Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng (đoạn 63):

 

Sứ vụ loan báo Tin Mừng cũng phải quan tâm đến việc hội nhập văn hoá, để Phúc Âm thấm vào các nền văn hóa và sinh hoa kết quả. Đó không phải là điều mới mẻ, nhưng đó chính là cách Chúa Giêsu đã thực hiện trong cuộc đời rao giảng của mình.

“Việc chú ý hợp tình hợp lý đến các Giáo Hội riêng không thể không làm cho Giáo Hội thăng tiến. Việc chú ý như vậy là một việc không thể thiếu và là một việc khẩn thiết. Nó đáp ứng những khát vọng rất sâu xa của các dân cũng như của các cộng đồng nhân loại, trong việc tìm kiếm căn tính của mình cho càng ngày càng sáng tỏ hơn”.

Giáo Hội luôn xác tín: “Loan báo Tin Mừng là một hồng ân và là ơn gọi riêng của Hội Thánh, là căn tính sâu xa nhất của Hội Thánh” (số 41).

Hồng ân và sứ mạng cao quý của mỗi người Kitô hữu là loan báo Tin Mừng. Nhưng với một xã hội đầy phức tạp này, chúng ta phải loan báo Tin Mừng như thế nào cho phù hợp? Chúng ta phải có những cách thức thực hiện cụ thể như thế nào để cho người khác đón nhận Tin Mừng chúng ta loan báo? Thánh Phaolô trong 2Tm 4,5 đã nói: “Phần bạn hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn phận vụ mình”.

Những bước chân người chứng được sai rất đẹp! Và họ, chúng ta đẹp như thế nào?

Trước những thao thức loan báo Tin Mừng, nơi Tông Huấn: Giáo Hội có hai cách thức chủ yếu là:

-  loan báo bằng cuộc sống

-  loan báo bằng lời.

 

- Loan báo Tin Mừng bằng cuộc sống:

 

Việc loan báo Tin Mừng đồi hỏi mỗi người tín hữu phải ra đi, đến, ở và hội nhập văn hóa với những nơi mình sống. Nhưng việc loan báo Tin Mừng ấy sẽ trở nên vô ích nếu như chúng ta không sống và làm chứng bằng chính cuộc sống của mình: về một Thiên Chúa tình yêu qua sự cảm thông và hy hiến cho tha nhân với một nhiệt tình vô hạn.

Hiện nay “con người thời đại mong nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có lắng nghe các thầy dạy là bởi vì các vị thầy này là chứng nhân” (Phaolô VI 2.10.1974.AAS,66).

Truyền thống các Tông đồ đã để lại cho chúng ta, nhất là nơi Phêrô, vị thủ lãnh của Giáo Hội đã diễn tả điều này khi chủ trương sống gương lành, trong sạch, yêu thương để chinh phục những tâm hồn cứng lòng (1Pr 3,1).

Giáo Hội trong mọi thời đại đã luôn sống làm chứng cho nhân loại về một đời sống trung thành với Đức Giêsu , với những giáo huấn của Chúa. Nhất là một đời sống về sự khó nghèo, không dính bén (số 41), làm chứng cho Chúa qua: phụng vụ Lời Chúa, qua các Bí tích (số 47). Việc làm chứng của Giáo Hội là luôn đồng hành với cuộc sống của con người trong “phẩm tính sâu xa nơi Thiên Chúa: phẩm tính làm Cha, làm Đấng quan phòng, hằng yêu thương, hiện diện” (số 48).  

Ngày nay, việc truyền giáo được thể hiện qua lòng đạo đức của các tín hữu, qua thái độ nhẫn nại, cảm nhận thập giá trong đời sống thường nhật, không dính bén, cởi mở với người khác, dấn thân (số 48). Giáo hội không làm gì khác hơn là chỉ cho người tín hữu động lực đích thực của việc thực hiện chính bản thân mình… cuộc sống sẽ trưởng thành và sung mãn hơn, khi được trao ban để đem lai cuộc sống cho kẻ khác” (Evangelii Gaudium số 10).

 

  1. Loan báo Tin Mừng bằng lời:

Bài giảng như là một phương tiện quan trọng và rất thích thuận trong việc truyền bá Phúc Âm (số 43), Và Giáo Hội cũng đưa ra lời khuyên: không được bỏ việc giảng thuyết trong phụng vụ của tất cả các Bí tích, trong những nghi thức á bí tích phụng vụ, và trong những cuộc hội họp của tín hữu, bài giảng sẽ luôn là dịp tốt lành để thông truyền Lời Chúa (số 43).

Việc thông truyền Tin Mừng bằng lời không thể bỏ qua rao giảng bằng phương tiện dạy giáo lý: “Thành phần tri thức, đặc biệt trẻ em và giới trẻ cần học biết qua việc dạy giáo khoa về đạo lý những giáo huấn căn bản, nội dung sống động về sự thật đã được Thiên Chúa chuyển đạt đến chúng ta” (số 44). Qua việc học hỏi giáo lý, muôn vàn giới trẻ cũng như người lớn, thành phần được Thiên Chúa đánh động, dần dần khám phá ra dung nhan của Đức Kitô và cảm thấy nhu cầu cần phải hiến mình cho Thiên Chúa (số 44).

Có thể nói, việc dạy giáo lý trong nhà thờ, trong các trường học khi có thể được hoặc trong các gia đình Ki-tô giáo cũng là một phương cách loan báo Tin Mừng hữu hiệu, và chắc chắn. Nỗ lực Tin Mừng hóa sẽ có hiệu quả hơn. Để có thể đạt được kết quả cao hơn và tốt nhất, cần chú ý ngay từ đầu việc đào tạo những người dạy tốt, có thiện nguyện, hy sinh sẵn sàng mất thời giờ riêng tư của mình dưới sự tác động của Thánh Thần Thiên Chúa.

Bên cạnh đó, trong Giáo Hội toàn cầu có một con số không nhỏ những Kitô hữu đã được rửa tội nhưng hiện nay không sống đức tin, và không muốn chứng tỏ mình là Kitô hữu. Ngoài ra, đối với các cộng đoàn tu trì, sứ vụ loan báo tin mừng luôn được giành một vị trí ưu tiên đặc biệt. Hội dòng tạo mọi điều kiện thuận lợi về nhân sự, về cơ sở vật chất cũng như về phương tiện để công cuộc loan báo tin mừng đạt kết quả cao. Và một điều thiết thực hiện nay đó là việc chuẩn bị xa cho sứ vụ quan trọng này. 

 

IV. NHẬN ĐỊNH VÀ MỘT VÀI GỢI Ý VỀ VIỆC THỰC HÀNH SỨ VỤ TẠI VIỆT NAM

A. NHẬN ĐỊNH:

 

Giáo Hội Việt Nam với Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng

Như đã trình bày ở phần trước: Evangelii Nuntiandi được ban hành năm 1975, vào lúc nhà nước Việt Nam vừa ra khỏi cuộc chiến, và Giáo Hội của chúng ta đang thấy mình ở giữa bao ngổn ngang và đang đối mặt với trập trùng sóng gió. Vì thế, âm hưởng của Evangelii Nuntiandi khá nhạt mờ. Với thời gian, Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng mà Đức Phaolo VI đã để lại cho Giáo Hội mang một kim chỉ nam tuyệt vời cho mọi thời đại. Với 82 số gói trọn những điều mà Công Đồng Vaticano II muốn triển khai.

Thực tế, trăn trở của Giáo Hội Việt Nam là mấy chục năm qua công cuộc truyền giáo tại Việt nam không mấy hiệu quả. Đó là điều mà chúng ta phải xem xét lại: Đâu là lý do và vấn đề đặt ra cho sứ vụ loan báo Tin Mừng? Phải chăng Tin Mừng chúng ta đang loan báo cho anh chị em đang sống xung quanh chúng ta chưa đủ men để bột có thể dậy men?

Hiện nay, tỷ lệ người Công Giáo so với dân số hiện nay đang giảm sút. Đó là tình trạng báo động mà mỗi người Kitô hữu Việt Nam phải suy nghĩ lại cách sống và cách loan Báo Tin Mừng của mình. Tình trạng trên xảy ra, có thể do cách diễn tả sứ điệp niềm tin Kitô giáo, phng cách sống đạo của người Ki tô hữu và một số đường lối cũ xưa của Giáo Hội không đáp ứng được nhu cầu tâm linh đã thay đổi của con người thời đại.

Xã hội Việt Nam đang thay đổi với tốc độ nhanh, Nhà Nước mở cửa để nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh. Toàn xã hội đang được công nghiệp hóa, kỹ nghệ hóa, đô thị hóa,...khiến đời sống nâng cao hơn, nhưng con người lại bận rôn hon rất nhiều. Trước thực tế, Giáo Hội Việt Nam thấy mình cần những thay đổi những gì có thể thay đổi và được phép thay đổi để thích ứng với nhu cầu tâm linh của người thời đại...

Vậy phải loan truyền cho những ai và loan truyền như thế nào?

Việc Loan Báo Tin Mừng là cho tất cả mọi người, mọi nền Văn hóa, mọi Tôn giáo, mọi Quốc gia. Tuy nhiên, cũng không quên việc củng cố cho sự chín chắn Đức tin của những tín hữu trước những thách đố của thời đại. Cũng thế, việc phúc âm hóa không phải là việc riêng lẻ của một người nào nhưng là của toàn Giáo Hội.

Ngoài ra, tinh thần của việc phúc âm hóa cũng là một trong những điểm quan trọng của Tông Huấn. Vì chưng nó đòi hỏi chính người rao giảng phải có tấm lòng rộng mở để đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và trở nên khí cụ của ngài, sẵn sàng vâng theo ý Ngài.

Việc Loan Báo Tin Mừng của Hội Dòng cần được trải rộng mọi ngõ ngách của con người như phục vụ trong các bệnh viện, trạm y tế, nhà thuốc, nhà hưu dưỡng, hướng đến người nghèo, các mái ấm cho người lầm lỡ, mở nhà nội trú, trung tâm dạy nghề cho các anh chị em các dân tộc...Người tu sĩ như khí cụ sống động được sai đi vào đời sống chứng tá, loan truyền Tin Mừng của Đức Kitô bằng đời sống dấn thân phục vụ, chiếu sáng sự thánh thiện của Thiên Chúa bằng sự hiện diện của mình qua đời sống khổ chế trong cô tịch và lao động, cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo nơi các Hội Dòng Chiêm niệm. Tuy vậy, nhìn chung các Hội Dòng cũng gặp phải những khó khăn thực tại: Thiếu cơ sở vật chất, thiếu nhân sự có tính chuyên môn để phục vụ một số lãnh vực đặc biệt trong các trung tâm người Siđa, người phong cùi, phục vụ các anh chị em dân tộc...

Ngày nay, khi cảnh vực sống của nhân loại đang biến đổi, Giáo Hội cần làm gì?

Giáo hội cần dùng sức mạnh của Tin Mừng: Lời Chúa và Tình yêu của Chương Trình Cứu Độ, mà đi ngược dòng những tiêu chuẩn phán đoán, những giá trị nhân đạo, những bận tâm chính yếu, những trào lưu tư tưởng, những mẫu mực sống của nhân loại giúp củng cố, nâng đỡ và như là bảng chỉ dẫn cụ thể con đường sứ vụ mà mỗi người đang hướng tới. Tông Huấn còn là cánh cửa mở cho sứ vụ Giáo Hội luôn mãi tiếp diễn trong suốt hành trình dương thế này cho tới ngày Giáo Hội được hoàn trọn trong Đức Kitô.

Từ những nét chính yếu và nhìn vào thực trạng cuộc sống hôm nay chúng ta có thể đưa ra một vài gợi ý để bước tiếp trong dòng chảy Sứ vụ của Giáo Hội.

 

B. MỘT VÀI GỢI Ý CHO VIỆC THỰC HÀNH SỨ VỤ TẠI VIỆT NAM

Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam, cách riêng là Đại Hội Dân Chúa diễn ra tại Sài gòn, từ ngày 21 -> 25 /11/2010. Đại hội đưa ra nhiều giải pháp, nhiều mô hình đề xuất cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt nam như: : “Mục vụ Nhà trẻ”, “Mục vụ Nhà đất”, “Mô hình Giáo Hội Gia đình”, “Mô hình Giáo Hội Tham gia”… Tuy nhiên, những giải pháp trên chỉ là ở vị thế phụ thuộc chứ chưa thực sự đem lại cho dân Chúa một hướng đi căn bản, dù đã đưa ra được hướng đi khác mang tính chiến lược và nền tảng hơn, đó là việc Giáo Hội phải tái Phúc Âm hóa chính mình, Giáo Hội phải phát xuất lại từ Đức Kitô.

  1. Nơi Giáo xứ và nơi các Hội Dòng, Hội Đoàn, trong các Gia đình:
    1. 1.Xây dựng ý thức Loan Báo Tin Mừng nơi mọi thành phần dân Chúa

Trong các thánh lễ, có ý chỉ cho việc làm chứng nhân Đức tin và Loan Báo Tin Mừng: Các hội đoàn, các lớp giáo lý đưa việc cầu nguyện và công tác Loan Báo Tin Mừng vào chương trình hoạt động của mình, gây quỹ truyền giáo cho giáo xứ. Bên cạnh đó, mỗi gia đình Kitô hữu hướng về một gia đình lương dân, hay một gia đình bỏ đạo đến với - sống cùng, cầu nguyện làm chứng và Loan Báo Tin Mừng cho họ. Nhất là trong năm Thánh Tân Phúc Âm Hóa đời sống Giáo Xứ và cộng đoàn sống đời Thánh Hiến.

  1. 2.Bồi dưỡng khả năng loan báo tin mừng cho các tín hữu và tái loan Báo Tin Mừng cho người khô khan:

Hình thành một ban chuyên trách- trực thuộc hội đoàn giáo xứ- để lo việc Loan Báo Tin Mừng tại mỗi Giáo xứ, Giáo họ, Cộng đoàn. Phối kết hợp với các đoàn thể khác (Legio, bác ái xã hội…) chia sẻ cuộc sống, tạo môi trường gần Chúa, huynh đệ với anh chị em công nhân di dân, thành phần bỏ đạo, nguội lạnh, bất mãn…để có phương hướng tiếp xúc và tìm cách nói về Chúa cho họ, đào tạo những người chuyên trách này về Giáo Huấn Của Giáo Hội, học hỏi các sáng kiến của liên hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nói riêng.

 

  1. 3.Hội nhập Văn Hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác:

 

Cùng với Thế giới, Xã hội Việt Nam thay đổi không ngừng, nên não trạng, quan niệm, lối suy nghĩ, cách sống cũng khác xưa khá nhiều. Trước dấu chỉ thời đại phải có sự thích nghi, hội nhập văn hóa mang tính sáng tạo và được thời đại hóa.

 

Dấn thântích cực, phổ biến và học hỏi cuốn “YOU CAT: giáo lý dành cho người trẻ”. Soạn thảo chương trình giáo lý Dự tòng, Hôn nhân và Gia đình, ngang qua việc quan tâm thiết thực đến các anh chị em Tân Tòng, những hội thảo theo chuyên đề hậu Hôn Nhân, cộng hưởng những kỹ năng gần gũi và thiết thực, chú ý tới yếu tố Tôn giáo và văn hóa để các anh chị em thuộc giới trí thức ngoài công giáo, và những anh chị em nào muốn tìm hiểu đạo cách khách quan: Đạo Công Giáo với việc thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên (điều răn thứ 4), liên kết với ngoại bang, mê tín dị đoan (ăn thịt người, bùa ngải...). Hôn Nhân Công Giáo (lấy vợ lấy chồng người có đạo là bỏ Tổ Tiên Ông Bà, Cha mẹ), nhằm giải tỏa bớt những ngộ nhận vốn có.

  1. 4.Phải thay đổi cách sống và loan báo Tin Mừng:

Nhu cầu tâm linh người trẻ, những ưu tư, những khát vọng, thao thức, não trạng, tâm lý, khuynh hướng, quan niệm, cách suy nghĩ, khó khăn trước vòng xoáy công nghệ hóa...Chúng ta cũng có thể đến gần họ hơn khi sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội. Thực tế cho thấy mạng truyền thông có một lợi điểm rất lớn, dễ dàng. Giáo Hội tin rằng nếu được sử dụng đúng đắn, các phương tiện truyền thông này mang lại hiệu quả rất lớn, đóng góp nhiều cho việc giải trí, huấn luyện tinh thần, mở rộng và củng cố Nước Chúa.  “Giáo Hội cảm thấy mình có lỗi đối với Chúa của mình nếu không đem ra sử dụng những phương tiện có công hiệu rất lớn này, mà trí óc loài người làm cho càng ngày càng trở nên trọn lành hơn” (số 45). Hơn nữa, lắng nghe, hiểu được tâm tư của họ, nói tiếng nói của họ, đồng hành với họ vượt qua khó khăn, tạo đủ môi trường tin tưởng, yêu thương, bác ái chân thành nếu không muốn họ đi tìm những nơi, những tổ chức, những niềm vui theo cách riêng của họ.

  1. 5.Làm chứng bằng sự bình an và vui tươi:

Người thời đại họ tin sau khi được chứng minh, nghĩa là chỉ chấp nhận sau khi đã kiểm chứng bằng thực tế....Họ chấp nhận người Kitô sống bình an vui tươi bất chấp nghịch cảnh, sống yêu thương và yêu thương tất cả mọi người trong niềm vui. Hơn nữa, người tu sĩ phải trở nên tiếng chuông đánh thức mọi người “ở đâu có tu sĩ, ở đó có niềm vui”

  1. 6.Cần trình bày một Đức Kitô sống động:

Trong những vấn đề thực tế phải lo toan, chúng ta nói với người thời đại về một Đức Giê su Kitô sống động trong hiện tại, một Thiên Chúa đang sống ở giữa mọi người (Ga 1,14), và ở trong chúng ta (Ga 1, 20). Việc rao giảng cần phải được thực hiện làm sao để người rao giảng và người được nghe rao giảng chung cùng một niềm tin, chung một nhịp đập cảm nghiệm có Thiên Chúa sống thật trong cuộc sống mình, một sự hiện diện đầy sức mạnh, quyền năng và tình yêu chan hòa trên cuộc sống.

  1. 7.Đừng quá chú trọng đến kiến thức, giáo điều:

Đức tin người Ki tô hữu trong quá khứ quá chú trọng đến kiến thức hay giáo điều về Thiên Chúa, về Đức Kitô. Làm cho người tín hữu không ít khi chỉ là chấp nhận suông những kiến thức, hay những giáo điều đã được phổ biến, nhất là gắn chặt với lối suy nghĩ: Sợ tội, cũng như cũng không thiếu những sai lầm của cố chấp vì luật, vì giáo điều mà gây nên sự chia rẽ trong hàng ngũ những người Con của Thiên Chúa. Con người tránh làm việc xấu nhưng thiếu sức sống, thiếu sự triển nở. Cần có luật để thống nhất với nhau nhưng bên cạnh đó chúng ta phải uyển chuyển theo bước chân yêu thương của Thiên Chúa là cha nhân hậu và giàu lòng thương xót.

  1. 8.Sẵn sàng thay đổi những gì có thể thay đổi:

Mọi tín điều, luật lệ, giáo lý, triết lý, thần học đều được làm nên vì con người, để phục vụ con người, chứ không thể ngược lại. Tất cả thích ứng với con người, thay vì để con người thích ứng với những điều đó. Sẵn sàng thay đổi những gì có thể thay đổi khi không còn thích hợp hay tạo nên bức tường cản trở con người đến với Thiên Chúa và với nhau. Ban Giáo lý Giáo Phận tổ chức các khóa học tập, hội thảo định kỳ cho các người chuyên trách để các vị này có thể nắm bắt, cập nhật những định hướng mới của Huấn Quyền, những người có trách nhiệm cần khôn ngoan bàn hỏi và bãi bỏ, như các Tông Đồ đã sống và làm gương cho chúng ta.

  1. 9.Cần phân biệt cái không thể thay đổi với những cái có thể thay đổi:

Người chiến sĩ Chúa Kitô sẵn sàng thay đổi những gì có thể thay đổi, và chỉ cương quyết giữ lại những gì cốt tủy không thể thay đổi được. Muốn thế, chúng ta cần nhạy bén để biện phân những gì là mục đích với những gì là phương tiện, những gì cốt tủy với những gì tùy phụ. Chẳng hạn: Ngôi Lời đã Nhập Thể vào ngôn ngữ và văn hóa của con người. Trong cá Giáo Huấn của Giáo Hội, cần phân biệt đâu là yếu tố cốt tủy đâu là yếu tố văn hóa được dùng để diễn tả sứ điệp. Lẫn lộn những điều đó, chúng ta sẽ khó phân biệt được và không quyết đoán được những gì có thể thay đổi và những gì không thể thay đổi.

Những đề xuất trên đây không nhằm hạn chế những thúc đẩy của Chúa Thánh Thần trong việc Loan Báo Tin Mừng nơi mỗi tín hữu. Chúng ta vẫn phải làm những gì mà lâu nay chúng vẫn làm như: Sống Đức tin qua việc năng lãnh nhận Các Bí Tich, làm chứng cho những giá trị của tin mừng, tránh làm gương mù gương xấu, thăm viếng anh chị em lương dân, cư xử cho có tình người hơn, kêu gọi mọi thành phần dân Chúa tiếp tục đưa ra những sáng kiến để tin mưng được nhiều người biết đến và tiếp nhận…đặc biệt mời gọi các anh chị em Kitô hữu tham gia vào công tác chính trị, bác ái xã hội  để cùng nhau làm thăng tiến con người.

 

  1. Kết Luân

Qua những gì vừa trình bày, chúng ta đã nhận thấy việc truyền giáo không hạn hẹp trong một đối tượng riêng nào cả. Những thao thức của Đức Thánh Cha Phaolô VI tiếp tục đượcđề cập không chỉ mang một kế hoạch lâu dài, mà còn như những hoạch định thiết thực hằng ngày cho người Rao Giảng Tin Mừng.

Mang trên mình hành trang yêu thương, đong đầy con tim bằng tấm lòng rộng mở, vị tha, hướng thượng, nuôi sống mình bằng đời sống cầu nguyện, phát xuất từ Đức Kitô, như Ngài luôn quan tâm đến mọi đối tượng, mọi thành phần của xã hội, sẵn sàng đi đến vùng ngoại biên của mình để đến với người khác.

Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng không chỉ được trình bày như một bài học, có sự chuẩn bị cẩn thận và đưa ra đọc biết, thảo luận, nhưng cùng mở ra cho tất cả chúng ta một chân trời mới, là chuẩn điểm cho ta quy chiếu trước những thách đố của thời cuộc, trong việc đem Tin Mừng và tình yêu Thiên Chúa đến với con người và cho con người. Từ đó, Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta cùng cộng tác trong sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng niềm xác tín về sứ mạng của Chúa Cha đã trao qua Đức Kitô với sự hướng dẫn dắt đắc lực của Chúa Thánh Thần trong tinh thần hiệp thông.

 

Read 4384 times Last modified on Thứ bảy, 11 Tháng 7 2015 14:53