8.7 Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
Hs 14:2-10; Tv 51:3-4,8-912-13,14,17; Mt 10:16-23
Khôn ngoan như rắn và đơn sơ như Chim câu
Xưa cũng như nay, người ta còn dùng rắn để chữa nhiều bệnh. Chúa Giê su mượn hình ảnh con rắn để dạy các môn đệ cũng như những ai muốn làm môn đệ Ngài khi thi hành sứ vụ phải biết khôn ngoan cẩn trọng nhưng không quỷ quyệt, luồn lách, thâm độc, Sự khôn ngoan này phải xuất phát từ tấm lòng từ bi chân thành, ngay thẳng, đơn sơ như chim bồ câu.
Con rắn rất nhiều ở Palestin. Hình như con rắn nào càng độc thì càng tinh khôn. Chúng thường đi ăn và săn mồi ban đêm, chúng trườn mình rất nghề, chúng đi lại êm đềm như gió, chúng biết cách ẩn nấp trong bóng đêm để rình mồi. Chúng biết cách sợ sệt và trốn lủi tài tình. Chúng leo cây, chui luồn dưới nước đều được hết. Con rắn hay bắt sâu bọ, chuột, ếch nhái là những đồ ăn loại mát tạng. Rắn rất thích nghe nhạc nhất là tiếng đàn violon, sáo, (biết nghe nhạc là một dấu khôn ngoan).
Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh con rắn để dạy các môn đệ bài học của sự khôn ngoan cẩn trọng trong đời tông đồ. Một sự khôn ngoan không lèo lái thâm độc. Nhưng là sự khôn ngoan đi đôi với lòng chân thành đơn sơ trong trắng như chim bồ câu.
Chim bồ câu ai cũng quen thuộc. Con chim nào cũng dễ thương. Từ bộ lông trắng mượt pha xám, đến đôi mắt ngây thơ, dáng điệu đi lại gật gù, điệu bay là là nhẹ nhàng thật dễ thương. Nói đến bồ câu, làm chúng ta liên tưởng tới ngày tạo dựng vũ trụ, có Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn là là trên nước (St 1,2) hay con chim câu đã bay về tàu Noe, sau lụt hồng thủy. Cũng nhắc tới Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên đầu Chúa Giêsu ở bờ sông Giodan (Mt 3, 16). Tiên tri Isaia đã ví lời cầu nguyện van xin của dân Israel như tiếng rì rầm của chim câu (Is 59, 11). Sách Diễm tình ca diễn tả chim câu là biểu tượng của tình yêu (2,14).
Nói chung, con chim câu là biểu tượng của bình an, trong trắng, đơn sơ. Chúng không biết làm tổ để ở. Chúng sống nương tựa vào người ta. Chúng có một trí nhớ đặc biệt đến nỗi người xưa đã dùng nó để đưa thư cả hàng chục cây số mà chúng vẫn trung thành hoàn tất sứ mệnh, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh chim câu để cầu chúc các tông đồ sống thành thật trung tín và hữu ích.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giê su biết trước trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng , các Tông đồ sẽ gặp bách hại, thất bại, ghen ghét và chống đối. Sự chống đối này còn xảy ra ngay trong gia đình nơi thân thương gần gũi với mình. Nên Ngài không những trấn an các ông đừng lo sợ vì có Thiên Chúa ở cùng nâng đỡ mà còn dạy các ông cần phải biết Khôn ngoan như rắn và đơn sơ như Chim câu. Điều này đòi hỏi người môn đẽ phải luon có đời sống cầu nguyện và tín thác vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết, rắn là loài vật luồn lách rất giỏi, tinh ranh và khôn ngoan, quỷ quyệt (St 3). Nó có thể cắn chết người (rắn lửa trong sa mac) và cứu người (con rắn đồng của Môi sê). Xưa cũng như nay, người ta còn dùng rắn để chữa nhiều bệnh. Chúa Giê su mượn hình ảnh con rắn để dạy các môn đệ cũng như những ai muốn làm môn đệ Ngài khi thi hành sứ vụ phải biết khôn ngoan cẩn trọng nhưng không quỷ quyệt, luồn lách, thâm độc, Sự khôn ngoan này phải xuất phát từ tấm lòng từ bi chân thành, ngay thẳng, đơn sơ như chim bồ câu.
Nói đến chim câu là nói đến sự trung thành (St 8, 8-12), hiền lành, trong trắng , đơn sơ là biểu tượng của Chúa Thánh Thần, của hòa bình, an lành. Chúa Giê su dùng hình ảnh này không những để khuyến khích các tông đồ mà cả chúng ta nữa, những người muốn theo Chúa, làm môn đệ Chúa phải luôn thành thưc, tín trung và phó thác vào tình yêu Chúa trong bất kỳ mọi hoàn cảnh của cuộc sông.
Thật vậy, thời nào cũng có những cuộc bách hại gây khó khăn cho người môn đệ. Nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại đầy dẫy những bất công, con người chỉ muốn sống tự do, hưởng thụ an nhàn tự tại cho riêng mình. Thời đại mà người công chính, lương thiện, người bênh vực chân lý thì mất dần tiếng nói trong xã hội, trong các công sở. Nếu không khôn ngoan như con rắn để phân định sự kiện. Nếu không đơn sơ như chim câu mở rộng tâm hồn đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và trung thành, tín thác vào tình yêu của Chúa. Người môn đệ dễ bị chán nãn thất vọng trước nhựng thất bại, chống đối ghét ghen, phản bội, kết án của xã hôi, bạn bè và ngay cả chính những người thân trong gia đình..
Tin Mừng hôm nay một lần nữa cho chúng ta hiểu được thế nào là ơn gọi và số phận của người Kitô hữu. Chúa Giêsu đã được cụ già Simêon gọi là dấu chỉ gợi lên chống đối. Cái chết của Ngài trên Thập giá là cao điểm của những chống đối mà con người dành cho Ngài. Tiếp tục sứ mệnh của Ngài, Giáo Hội ở mọi nơi và mọi thời, không thể thoát khỏi số phận bị chống đối ấy. Hình thức và mức độ của những cuộc bách hại có khác nhau, nhưng tựu trung ở đâu và lúc nào Giáo Hội cũng bị bách hại.
Ý thức về sự bách hại không phải là một mặc cảm; lên tiếng về những bách hại cũng không hề là một ý đồ chính trị. Giáo Hội tự bản chất luôn bị đặt vào thế bị chống đối. Chấp nhận đi theo Chúa Kitô, sẵn sàng chiến đấu chống lại tội lỗi, lên tiếng chống lại bất công và can đảm lội ngược dòng, sống như thế tức là đã bị bách hại rồi. Một Giáo Hội phục vụ có thể được thương mến, nhưng một Giáo Hội bị bách hại lại càng là Giáo Hội trung thành với Chúa Kitô hơn. Trong một chuyến viếng thăm tại Braxin, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Tôi thà thấy muôn ngàn lần một Giáo Hội bị bách hại, hơn là một Giáo Hội thỏa hiệp”.
Các tông đồ đã được loan báo cho biết trước để cảnh giác: họ sẽ như chiên hiền lành bị trao nộp vào vòng tay hung tợn của địch thù, chẳng khác chi bầày sói dữ. Nước Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự hèn yếu của các sứ giả của Đức Giêsu. Lịch sử Giáo Hội cũng đầy dẫy những sự thật này: chính những con người bé mọn khiêm tốn lại là những tác nhân Chúa dùng để thực hiện những công trình vĩ đại.
Cuối cùng lời khuyên “anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu”, có nghĩa là hãy khôn ngoan và đơn sơ như Thầy Giê-su, luôn sống và hành động dưới tác động của Thần Khí (x. Gl 5,
Huệ Minh